Nỗ lực phá giá tiền tệ để tăng sức mạnh cạnh tranh đang là trung tâm
của các hoạt động chính sách vĩ mô chiến lược của Trung Quốc trong năm
2015. 3 lần phá giá liên tiếp (2% ngày 11/08; 1,6% ngày 12/08; 1,1%
ngày 13/08) và một lần điều chỉnh tăng nhẹ giá NDT (0,05% ngày 14/08)
cho thấy Trung Quốc rất chủ động và mạnh tay trong chính sách tiền tệ.
Với 3 đợt phá giá liên tiếp trong 3 ngày và một lần điều chỉnh tăng nhẹ
nhằm hạn chế bớt các cú sốc thị trường, đây là những giải pháp đã được
tính toán kỹ có tính chủ động chứ không bị động. Phần lớn các kinh tế
gia trên thế giới đều cho rằng hành động của Trung Quốc là phù hợp lẽ
tự nhiên. Những tín đồ sùng bái thị trường tự do từ lâu cho rằng sự can
thiệp của Trung Quốc vào thị trường tiền tệ và tỷ giá diễn ra trong
một thời gian dài và làm méo mó thị trường. Phần lớn các nhà kinh tế
học nửa mùa vốn coi thị trường tự do là thánh kinh tối cao hồ hởi cho
rằng kỷ nguyên suy tàn đã đến với Trung Quốc. Loài người vốn chóng
quên, trí nhớ của các kinh tế gia lại càng tệ hại. Hơn 30 năm qua, đã
nhiều lần Trung Quốc chứng minh mô hình kinh tế của nó phát triển theo
những quy luật hoàn toàn khác với chuẩn mực kinh tế của thế giới phương
tây. Dù là cảm quan (perception) hay lượng hóa (quantitative -
prediction), cần có nhìn nhận rất khác để đưa ra một cái nhìn viễn kiến
về Trung Quốc trong thập kỷ đầy sóng gió này.
Khá
buồn cười vì các chuyên gia kinh tế bán chuyên (Khái niệm chung cho
những người có "bằng cấp" nhưng thiếu kiến thức) ở Việt Nam hăm hở kết
luận rằng Việt Nam cần phá giá ngay và luôn, càng cao càng tốt, thậm
chí gấp đôi mức phá giá NDT để cạnh tranh lợi thế trong xuất khẩu và
khắc phục dòng thương mại nhập siêu nặng nề từ Trung Quốc. Đây là lối tư
duy thiển cận nếu không muốn nói là ngu dốt. Nó làm người ta nhớ lại
khái niệm nhà kinh tế học một tay "The one-handed economist" mà
Harry Truman từng mỏi mắt tìm kiếm vào thập niên 1950. Trong các vấn đề
kinh tế vĩ mô, luôn có sự liên kết phức tạp và tác động qua lại giữa
các nhân tố, các chính sách và các diễn biến thực tế của thị trường.
Mọi quyết sách quốc gia, không thể là bãi thử của những thứ tư tưởng có
vẻ ngoài thông thái nhưng nội hàm rỗng tuếch, đặc biệt là những thứ tư
tưởng mang vẻ hào nhoáng của giá trị thị trường tự do.
Việc
tranh luận về khiếm khuyết của các quy luật thị trường đến giờ không
còn cần bàn cãi. Điều mà hầu hết các nhà nước trên thế giới tìm kiếm,
không phải là việc có can thiệp hay không mà là mức độ nào của sự can
thiệp nhà nước vào thị trường được cho là phù hợp. Mỗi quốc gia có lời
giải riêng, có thể đúng hoặc sai. Riêng với Trung Quốc, nó gần như đúng
liên tục tính từ năm 1976 đến 2015, nghĩa là đã gần 40 năm chẵn. Cho
đến khi cú sốc đầu tiên diễn ra trên thị trường chứng khoán, khi hơn
141 tỷ USD được TQ ném vào vẫn không vãn hồi nổi sự suy giảm của thị
trường. Câu chuyện nghiêm trọng hơn đến với Trung Quốc khi xuất khẩu
nước này liên tục suy giảm. Mức xuất khẩu tháng 07/2015 thậm chí đã
giảm tới 8,3% so với cùng kỳ. Đây là một cú sốc nặng nề, bởi sự thần kỳ
trong 40 năm qua của Trung Quốc chính là xuất khẩu.
Kỷ
nguyên của Tập Cận Bình bắt đầu từ ngày 15/11/2012. Là thành phần con
ông cháu cha, thuộc thế hệ "Phú Nhị Đại" (Con cháu đời thứ hai) của lớp
công thần khai quốc, Tập được coi là thế hệ lãnh đạo sẽ quyết tâm gìn
giữ di sản của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, hà hơi cho chính thể độc tài
có hạng này và giúp nó tồn tại dài lâu hơn trong thế kỷ 21. Châm ngôn
của Tập Cận Bình, là tìm cách xây đắp giấc mộng Trung Hoa. Tập nhấn
mạnh vào viễn cảnh Trung Quốc hùng cường thống trị thế giới để kích
động tinh thần của người Trung Quốc và lờ tịt đi việc liệu Đảng Cộng
Sản Trung Quốc có làm gì để xóa bỏ bất công và nới lỏng dân chủ cho
người dân của nó hay không. Sự lập lờ này của Tập có lẽ sẽ thành công
nếu Trung Quốc cứ tiếp tục tăng tốc như nó đã từng trong suốt 40 năm
qua. Tuy nhiên thực tế cho thấy điều đó là không thể. Sự khó khăn ngày
hôm nay của Trung Quốc đến từ 3 nguyên nhân chính, phần lớn đều là
những tác nhân không thể khắc phục một sớm một chiều, thậm chí nằm
ngoài tầm với của các chiến lược gia Trung Quốc:
1.
Nhân tố thứ nhất: Sự bùng phát bong bóng quá mức của thị trường chứng
khoán. Liên tục được bơm phồng trong suốt thời gian Tập bắt đầu nắm
quyền, nhằm hai mục đích: Tạo sự gia tăng ảo của giá trị tài sản của
công dân TQ khi giá chứng khoán liên tục tăng; Và tạo cơ hội cho việc
bán tống các tài sản nhà nước với mức giá cao nhằm đẩy nhanh việc tích
lũy tài sản nhà nước. Chính sách này là một hợp phần của chính sách lớn,
theo đó Tập muốn thúc đẩy kinh tế TQ đến năm 2030 bằng việc kích cầu
tiêu dùng của thị trường 1,5 tỷ người nội địa, thay thế cho thị trường
xuất khẩu vốn ngày một khó khăn. Biện pháp này của Tập lặp lại sai lầm
của Việt Nam năm 2007 (dù cơn điên loạn chứng khoán của Việt Nam diễn ra
một cách tự phát chứ chính phủ và giới lập chính sách Việt Nam trên
thực tế chẳng có chính sách nào có thể coi là dài hạn). Tuy nhiên, có
thể khẳng định sự suy sụp của thị trường chứng khoán Trung Quốc là không
thể chặn lại được. Nó sẽ dẫn đến một kịch bản giống hệt những gì diễn
ra ở Việt Nam, tài sản của các nhà đầu tư nhỏ lẻ bốc hơi trong lúc
nhiều tay chơi lớn đã đóng tài khoản và dông ra ngoại quốc. Điều nguy
hại hơn, là sức mua của thị trường nội địa sẽ suy giảm nhanh chóng, nền
kinh tế đi vào giai đoạn trì trệ do tâm lý u ám của người dân. Điều
này khiến chính sách tăng trưởng dựa vào kích cầu nội địa của Tập Cận
Bình phá sản.
Sự thay đổi số lượng các tài khoản giao dịch trên thị trường chứng khoán Trung Quốc trong tháng 7 so với tháng 6
2. Nhân tố thứ hai: Sự đổ vỡ của thị trường Bất động sản Trung
Quốc. Giống như Việt Nam nhưng ở một quy mô lớn và có tính tàn sát cao
hơn, giới đầu cơ giàu có đến mức kinh khủng của Trung Quốc vốn được
hình thành từ quá trình phân phối bất công trong 40 năm qua đã làm nên
một thị trường bất động sản tăng trưởng nóng và định giá vượt tầm với
của hơn 90% dân số Trung Quốc. Giá nhà tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên
Tân ... và đại bộ phận các đô thị lớn của Trung Quốc từ lâu là một dạng
tài sản chỉ phù hợp với khả năng của 10% dân số Trung Hoa, những thành
phần thân hữu của bộ máy cầm quyền, tích tụ tài sản dựa trên quan hệ
và các cơ hội kinh doanh bất bình đẳng. Thị trường bất
động sản kỳ quái ấy tồn tại trong nhiều thập niên và liên tục gia tăng
mức độ kỳ quái của nó khi liên tục tăng giá vượt ngưỡng của đại bộ phận
những người tiêu dùng đầu cuối (những người thực sự có nhu cầu nhưng
không có khả năng chi trả). Cơn sốt chứng khoán tạo ra một sự gia tăng
tài sản ảo khiến thị trường bất động sản tăng trưởng nóng tồn tại thêm
được một thời gian. Cùng với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, sự
sụp đổ của thị trường bất động sản Trung Quốc là một diễn biến tất yếu.
Trong ngắn hạn, dòng tiền rút ra từ chứng khoán sẽ đổ vào bất động sản
và có thể tạo một cơn sốt ngắn và duy trì thị trường này thêm một vài
tháng, nhưng sự suy sụp tài sản sẽ nhanh chóng quét sạch các nhà đầu cơ
và diễn biến của nó là đổ vỡ. Hệ lụy kéo liền theo đó là nợ xấu ngân
hàng nhanh chóng gia tăng, khi các khoản vay dính dáng đến chứng khoán
và bất động sản gặp vấn đề. Ngoài ra, giá bất động sản giảm còn dẫn tới
tài sản thế chấp ròng của các khoản vay suy giảm, tạo thêm cơn khủng
hoảng kép đối với nợ vay ngân hàng. Điều may mắn là Trung Quốc có thể
nhìn sang Việt Nam để tham khảo diễn biến 2007 - 2015 làm bức tranh
tham khảo. Điều bất hạnh là quy mô tàn phá ở Trung Quốc sẽ lớn hơn
những gì ở Việt Nam gấp rất nhiều lần.
3.
Và nhân tố chính đe dọa giấc mộng Trung Hoa trong thế kỷ 21: Cuộc
chiến thương mại khốc liệt mà Mỹ, Nhật và các đồng minh phương tây đang
tiến hành nhằm ngăn chặn sức mạnh của nền kinh tế Trung Quốc thông qua
hàng hóa xuất khẩu. Diễn biến thực tế của xu hướng này đã liên tục
định hình kể từ 2013, khi chiến lược xoay trục sang phía Đông của Mỹ
ngày một rõ nét và cuộc khủng hoảng Hy Lạp khiến châu Âu ngày một khắt
khe hơn đối với hàng hóa nhập khẩu China. Không may, trong cùng thời
kỳ, Tập Cận Bình ngày một hung hăng tại Hoa Đông và Biển Đông, khiến
Mỹ, Nhật và các đồng minh phương tây ngày một quyết đoán hơn trong việc
kiềm chế sức mạnh kinh tế Trung Quốc. Không thể đắp đê cô lập như thời
kỳ chiến tranh lạnh với Liên Xô, Mỹ chuyển sang việc xây dựng các khối
liên minh kinh tế mà Trung Quốc buộc phải đứng ngoài, và dựng ra các
hàng rào kỹ thuật ngày một khắt khe để chặn hàng Tàu. Kết quả là xuất
khẩu của Trung Quốc vào Nhật Bản giảm tới 13%, vào EU giảm tới 12 % và
vào Mỹ giảm xấp xỉ 2%. Cả Mỹ và Trung Quốc đều thừa hiểu rõ, sau khi
TPP thành hình, đà suy giảm xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường lớn
nhất và quan trọng nhất thế giới là nước Mỹ sẽ giảm không dưới 10%. Lỗ
hổng sẽ được lấp đầy nhanh chóng bởi các nền kinh tế mới nổi đến từ
châu Á có tham gia TPP như Việt Nam, Malaysia .... Đây sẽ thực sự là
một thập kỷ ác mộng với nền kinh tế Trung Quốc.
Cần
lưu ý rằng chính phủ Trung Quốc trong 40 năm qua đã rất thành công
trong việc can thiệp thị trường, khiến Trung Quốc vươn lên thành một
siêu cường có quy mô ngang với nền kinh tế khổng lồ của Mỹ nếu tính theo
sức mua tương đương PPP. Đã nhiều lần các chiến lược gia Trung Quốc
khiến đám học giả phương tây vốn sính chữ nghĩa hơn là năng lực thực tế
(Phần lớn đám giáo sư, học giả kinh tế thực ra lại là những người rất
kém hiểu biết về kinh tế, minh chứng là hầu hết đám này không có khả
năng kinh doanh) phải muối mặt vì những dự báo sai lầm. Tuy nhiên, lần
này có vẻ đám học giả đã gặp may, vì quả thực sự thần kỳ 40 năm của
Trung Quốc đã đến hồi kết với các diễn biến trên thực tế của thị trường
và các quyết sách mang nặng tính địa chính trị của Mỹ, Nhật cũng như
các đồng minh phương Tây. Những cú bồi liên tiếp này khiến Trung Quốc
khó bề gượng lại trong thời gian tới.
Trung Quốc
không ngồi yên. Cú phá giá nhân dân tệ cường độ thấp vừa rồi là biện
pháp "xuất khẩu khủng hoảng" ra thế giới đầu tiên. Mục đích trực tiếp
của động thái này, là nhằm vãn hồi năng lực cạnh tranh cho hàng hóa
Maded in China. Sâu xa hơn, là một cuộc chiến tiền tệ đánh trực tiếp
vào hai nền kinh tế cạnh tranh chính yếu của Mỹ và Nhật Bản. Ở một mức
độ thấp hơn, đây cũng là đòn đánh trực diện vào nền kinh tế Việt nam,
nhằm tăng thêm mức độ nhập siêu và biến đất nước được cai trị bởi một
đám ăn hại trong nhiều năm lệ thuộc mạnh hơn nữa vào Trung Quốc. Ý nghĩa
địa chính trị của động thái này không hề nhỏ, khi đặt trong bài toán
tổng thể về kế hoạch vươn xa ra các đại dương của Trung Quốc trong thế
kỷ 21. Câu hỏi đặt ra là Trung Quốc sẽ phá giá đến mức độ nào?
Tác
động phá giá tiền tệ, là hai mặt của một vấn đề. Nó giúp gia tăng xuất
khẩu nếu các nhân tố thị trường là không đổi (Anh Lãng nhấn mạnh là
không đổi), mặt khác, nó có tác động tiêu cực tới sức mua nội địa khi
giảm thu nhập thực tế của người dân. Phá giá tiền gây lạm phát, nhưng
lại bị triệt tiêu khi sức cầu nội địa suy giảm, thậm chí có thể dẫn tới
giảm phát. Tác động tiêu cực lớn nhất của nó, là ảnh hưởng đến dòng
tiền trả nợ nước ngoài. Quốc gia có nợ công càng lớn, dư địa cho chính
sách phá giá tiền càng nhỏ. Thực tế của Trung Quốc thì sao?
Thống kê nợ nước ngoài của TQ tính đến tháng 2/2014 trên GDP
Nghiên cứu năm 2014 của Cơ quan quản lý ngoại hối Trung Quốc (SAFE)
đưa ra con số nợ nước ngoài vào khoảng 823 tỷ USD vào cuối 2013, đầu
2014, nghĩa là nợ nước ngoài của Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 9% GDP.
Tuy nhiên, theo chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP), Stephen Green - giám
đốc Ngân hàng Standard Chartered cho rằng, tổng khoản nợ quốc tế của
Trung Quốc thậm chí lên tới 3,8 nghìn tỷ USD vào tháng 9/2013, chiếm
43% tổng GDP. Đây là một con số lớn hơn gấp nhiều lần con số do SAFE
đưa ra. Sự chênh lệch này được giải thích bởi hai lý do chính: thứ
nhất, cơ quan Quản lý ngoại hối Trung Quốc chỉ tính số nợ bằng ngoại tệ
mà chưa cộng số nợ bằng tiền Nhân dân tệ của Trung Quốc; thứ hai, SAFE
đưa ra con số không bao gồm FDI.
Trong trường hợp
này, thống kê của SAFE có ý nghĩa hơn bởi các khoản nợ nước ngoài chỉ
gây khó khăn cho Trung Quốc khi nó là nợ quốc tế và được yết giá bằng
ngoại tệ. Việc cộng dồn nợ vay tín dụng quốc tế tính bằng nhân dân tệ
chẳng khác là mấy trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ được lưu hành toàn cầu
với châm ngôn "Nợ là của chúng tôi, nhưng vấn đề là của các bạn" khi nó
có thể được tất toán bằng đồng tiền của nước đi vay.
Tỷ
lệ 9% GDP nợ nước ngoài bằng ngoại tệ khiến Trung Quốc có dư địa rất
lớn trong chính sách phá giá tiền, vì tác động của việc phá giá NDT đến
sự an toàn của dòng tiền trả nợ nước ngoài hoàn toàn có thể được kiểm
soát tốt. Hơn nữa, việc phá giá dưới 5% không mang lại sức bật vượt
trội nào cho dòng hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc. Chắc chắn rằng các
chiến lược gia của Tập Cận Bình sẽ chờ đợi sự phản hồi của thị trường
trong một vài tháng tới để đưa ra thêm các phản ứng mạnh hơn. Gần như
có thể tin chắc rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục hạ giá NDT để tìm cách thúc
đẩy nền kinh tế ì ạch khi hy vọng tăng trưởng cầu nội địa đã mất hút
với sự đổ vở của thị trường chứng khoán và bất động sản. 10% là một con
số được chờ đón về mức phá giá NDT tính đến đầu năm 2016.
Tác động tới Việt Nam
Là
một quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc, kết quả
của gần một thập niên cai trị yếu kém của chế độ tham nhũng ăn hại tại
Ba Đình, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nặng nề. Mức nhập siêu của Việt
Nam từ Trung Quốc tính trong 7 tháng đầu năm 2015 đã lên tới 19,4 tỷ
USD, tăng thêm tới 4,5 tỷ USD về giá trị tuyệt đối so với cùng kỳ. Dưới
sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục gia
tăng đà lệ thuộc vào mối đe dọa chủ quyền của nó một cách chắc chắn và
bền vững. Đây là sự thật cay đắng mà người Việt đang phải đối mặt, do
tài năng cai trị của đám chóp bu đốn mạt tại Ba Đình trong hơn 10 năm
qua.
Tuy nhiên, nếu nghe theo những gì mà đám kinh tế
gia của Việt Nam xúi dại, ồ ạt phá giá VND, thậm chí có ý kiến nên phá
giá VND tới 10 - 12% để đón đầu cạnh tranh xuất khẩu trong cuộc chiến
tiền tệ Trung Quốc đang tiến hành, một ý kiến vô cùng tai hại khi nó
nhìn nhận vấn đề quá mức một chiều, cái sẽ khiến kinh tế Việt nam rơi
vào một vực thẳm không thấy lối ra.
Thứ
nhất, cần xem xét rất kỹ cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc.
Thống kê chính thức, có tới 80% hàng nhập từ Trung Quốc thuộc nhóm hóa
chất, sản phẩm trung gian (bán thành phẩm) và máy móc thiết bị. Chỉ 20%
là hàng tiêu dùng. Nếu hiểu theo ý nghĩa này, thì việc phá giá NDT sẽ
không gây làn sóng ồ ạt tràn ngập mới của hàng Trung Quốc tại Việt Nam
ngay lập tức (nhưng về lâu dài sẽ tiếp tục trói chặt Việt Nam). Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng giữa số liệu của Tổng cục thống kê TQ và Tổng cục
thống kê VN có một khoản chênh tới 20 tỷ giá trị hàng hóa TQ xuất vào
Việt Nam. Dù Tổng cục thống kê Việt Nam biện bạch rằng con số chênh
lệch này có thể xuất phát từ cách tính khác nhau về xuất xứ hàng hóa,
tuy nhiên nói trắng ra thì ai cũng hiểu chênh lệch này chính là hàng TQ
nhập lậu tràn ngập qua biên giới trong sự tiếp tay của lực lượng hải
quan, quản lý thị trường và nhiều cấp chính quyền Việt Nam, vốn từ lâu
ăn chia chặt chẽ với nguồn lợi nhuận từ buôn lậu và sống chết mặc bay
với quyền lợi quốc gia. Nếu ghi nhận dù chỉ một nửa con số thống kê
chênh lệch này, thì tác động của chính sách phá giá NDT đối với nền
kinh tế Việt Nam sẽ nguy hại hơn con số thống kê chính thức gấp nhiều
lần. Phá giá mạnh VND xem ra là một giải pháp cần phải tiến hành một
cách quyết đoán và mạnh mẽ.
Tuy nhiên, ở một góc độ
khác, nợ công của Việt Nam hiện đã đến gần sát ngưỡng trần 65% GDP. Mọi
biện pháp phá giá VND sẽ tác động ngay và tức thời tới dòng tiền trả
nợ nước ngoài của Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh ngân sách đang thâm
hụt nặng nề và chính phủ Việt Nam vừa mới viện dẫn tới gói vay tới
30.000 tỷ từ Ngân hàng nhà nước nhằm bù đắp cho cái rỏ đốt tiền thủng
lỗ chỗ của ngân sách quốc gia. Phá giá VND với một tỷ lệ cao, có thể
dẫn tới tình trạng vỡ nợ nếu nguồn trả nợ nước ngoài không cân đối kịp.
Tỷ lệ nợ công quá cao khi sức khỏe của nền kinh tế yếu kém khiến dư
địa cho chính sách tiền tệ của Việt Nam không nhiều.
Thống kê nợ công Việt Nam 2004 - 2014
Tuy nhiên, nếu có điều gì đó được cho là đáng mừng thì đó chính là cơ cấu chủ nợ của Việt Nam:
Biểu đồ trên cho thấy chủ nợ lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật
Bản, chiếm tới 34,5% tại thời điểm 2012. Nếu số nợ này được tính bằng
đồng Yên thay vì USD thì vấn đề của Việt Nam không nặng nề như ta
tưởng. Nhật Bản, trong gói kích thích kinh tế Abenomics, liên tục điều
chỉnh hạ giá đồng Yên để kích thích xuất khẩu. Việc Trung Quốc phá giá
mạnh NDT chắc chắn sẽ khiến Nhật Bản mạnh tay hơn trong phá giá đồng
Yên. Do đó, dư địa phá giá VND sẽ lớn hơn khi một phần quan trọng nơ
nước ngoài là Yên Nhật thay vì USD.
Do đó có thể nói
việc Việt Nam nới rộng biên độ ngoại tệ thêm 2% (1% ngày 12/08 và thêm
1% vào ngày 19/08), đồng nghĩa với phá giá VND 2% là một biện pháp đúng
và phù hợp.
Với những phân tích về cơ cấu nợ nước
ngoài, dư địa chính sách tiền tệ của Việt Nam và mức độ phá giá dự kiến
của Trung Quốc tính đến đầu năm 2016, nhiều khả năng, VND sẽ được phá
giá tối đa 5% vào cuối năm nay.
Câu chuyện bi kịch của
Việt Nam chỉ thực sự có lối thoát khi cánh cửa TPP mở ra, mà theo như
cam kết của ngoại trưởng Mỹ Jonh Kerry, thì chắc chắn sẽ thành hình
trước năm 2016. Cá nhân anh cũng tin rằng điều này có khả năng cao, vì
nó phù hợp với lợi ích chiến lược của nước Mỹ trong thế kỷ 21.
Chúng
ta đành phải hy vọng rằng đám ăn hại đốn mạt tại Ba Đình, lần này sẽ
không làm lỡ chuyến tàu lịch sử của dân tộc. Nếu bỏ lỡ TPP, chúng ta
đành ngậm ngùi nhìn viễn cảnh ngày một chìm sâu vào vòng xoáy lệ thuộc
kinh tế với Trung Quốc.
Và Câu chuyện Thiên Tân - Một thập kỷ suy tàn???
Trong
một bức tranh không lấy gì sáng sủa, vụ nổ kinh khủng tại Thiên Tân
dường như là điểm sáng le lói hiếm hoi. Có nhiều đồn đoán khác nhau về
nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của vụ cháy nổ kinh khủng vừa rồi tại
Thiên Tân, nơi được dự kiến là thủ phủ mới của Trung Quốc thay thế đô
thị đã quá tải và ô nhiễm đến mức khó tồn tại là Bắc Kinh. Chính phủ
Trung Quốc công bố con số chết chóc là 104 người, nhưng dân Trung Quốc
đưa ra con số đồn đoán vượt gấp 14 lần, lên tới 1400 người chết. Và số
chịu ảnh hưởng lên tới vài chục nghìn người. Hậu quả sẽ còn kéo dài và
dai dẳng bởi hóa chất độc dò rỉ từ vụ nổ hiện ngày một khó kiểm soát và
ngày một lan rộng vào đất, nguồn nước và không khí. Nguyên nhân của vụ
nổ cũng có nhiều đồn đoán. Ý kiến đơn giản nhất thì cho rằng đó thuần
túy là một tai nạn và do sự bất cẩn của lực lượng cứu hóa đã khiến vụ nổ
trầm trọng hơn. Một lý thuyết âm mưu thì cho rằng đó là kết quả của
các hoạt động khủng bố xuất phát từ Cáp Nhĩ Tân. Lý thuyết âm mưu trừu
tượng hơn nữa thì cho rằng đó là hoạt động phá hoại của phe nhóm Giang
Trạch Dân, nhằm gây bất ổn và khó khăn cho Tập Cận Bình trong bối cảnh
kinh tế Trung Quốc đang khó khăn trầm trọng.
Bất kể
câu chuyện diễn ra theo kịch bản nào, thì vụ nổ Thiên Tân, mà mức độ
hủy diệt của nó được so với một đơn vị vũ khí hạt nhân loại nhỏ dường
như đang báo hiệu một thập kỷ suy tàn của Trung Quốc: Suy thoái
kinh tế đi kèm với bạo lực và bắn giết.
Những quốc gia
nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc như Việt Nam, lại càng phải
cảnh giác hơn vì truyền thống xuất khẩu khủng hoảng của Trung Quốc.
Chắc chắn rằng Trung Quốc sẽ không dừng ở việc xuất khẩu các khó khăn
kinh tế sang các nền kinh tế xung quanh, khi bạo lực lan tràn trong nội
địa, Trung Quốc sẽ xuất khẩu thêm cả bạo lực như một giải pháp cai trị
vốn đã thâm căn cố đế trong mọi triều đại của cái đế quốc hung hăng
ấy.
P/S Và nhận định bổ sung tình hình trong phần trả lời commnet:
Mỹ và Trung Quốc khác nhau rất xa. Dotcom rớt quãng năm 2000 là câu chuyện của một ngành trong nền kinh tế. Công nghệ Mỹ và thung lũng Silicon chuyển sang một hướng phát triển mũi nhọn khác mà về sau dẫn dắt bởi sự quật khởi của Apple. Diễn biến 8 năm sau đó trong hệ thống ngân hàng với câu chuyện của Barron thực ra lại là một câu chuyện khác không mấy liên quan, nó nằm trong phạm trù về quản trị kinh tế và chính sách nhà ở. Trung Quốc phá giá NDT trong bối cảnh kinh tế xấu (khác hẳn những lần Trung Quốc phá giá những năm 1990, khi đó chỉ số vĩ mô của TQ rất ổn) sẽ đem lại hiệu ứng ngược. Dân TQ nếu đổ xô rút tiết kiệm mua vàng và mua usd thì sẽ khiến cán cân vãng lai và cán cân thanh toán TQ có vấn đề, đặc biệt khi xuất khẩu giảm đồng nghĩa nguồn thu ngoại tệ giảm. Trên thị trưởng vốn, xu hướng chuyển vốn đầu tư khỏi TQ giờ đã là một xu hướng chung. Bất kể do chinh trị (đầu tư Nhật tháo lui dần) hay kinh tế (giá nhân công không còn cạnh tranh), tiền vẫn đang chạy ra khỏi TQ. Vốn đầu tư suy thoái tạo nên hiệu ứng kép đối với xuất khẩu: "hàng hoá sản xuất để xuất khẩu suy yếu thêm khi các nhà máy rời đi", tác động này đến trễ hơn, có thể 1 - 2 năm. Quỹ dự trữ ngoại hối của PBOC hiện khoảng 3600 tỷ usd (hụt 47 tỷ chỉ trong tháng 7). Nhìn vào con số thì thấy có vẻ lớn, nhưng nếu xét đến việc nó phải chống lưng cho cơn bão bán tháo NDT mua vàng, ngoại tệ (chưa diễn ra, nhưng nếu diễn ra thì cực kỳ khủng khiếp bởi dân TQ có tính ích kỷ ghê gớm và chưa hết ảm ảnh về thời cách mạng văn hoá, và dân TQ ngày nay thực ra sợ chinh quyền chứ không tin chính quyền), dòng vốn đầu tư (FDI) đang chảy ra, và dòng vốn thoái lui dần trên TTCK, đặc biệt nó vẫn phải đảm bảo cho toàn bộ cán cân 2200 tỷ nhập khẩu trong bối cảnh xuất khẩu có xu hướng giảm. Thêm vào đó, khoản dự trữ này cũng thâm thủng thêm một phần quan trọng trong kế hoạch đầu tư viễn dương (400 tỷ usd) cho dự án con đường tơ lụa mới và vành đai Á Âu phục vụ cho giấc mộng Trung Hoa của Tập Cận Bình, dù kinh tế gặp khó nhưng trong thế đâm lao Tập rất khó dừng lại vì công sức thao quang dưỡng hối 30 nam đổ sông đổ biển nếu phanh ngay. Điều nguy hiểm nhất đối với Trung Quốc vào quỹ dự trữ ngoại hối của nó lại đến từ chính trợ lực lớn nhất của TQ trong những năm qua: "mạng lưới kinh tế Trung Hoa" kết nối hệ thống kinh tế của Hoa Kiều và đại lục trên khắp thế giới. Mạng lưới này chi phối các dòng kinh tế ngầm có thể đào rỗng ngoại tệ của Trung Quốc theo một cách mà PBOC không thể kiểm soát (Trung Quốc không có tự do hoá tài chính nhưng hệ thống kinh tế bang hội hoa kiều khét tiếng nằm ngoài mọi sự quản chế mà chinh quyền TQ không với tới). Anh Lãng sẽ làm một thiên Lãng luận riêng phân tích về câu chuyện này. Tất nhiên là Trung Quốc không chết ngay, thậm chí nó có thể thoát hiểm nếu thành công đẩy Nga ra làm bia hứng đạn chính cho hỏa lực chế tài kinh tế của Mỹ và Châu Âu. Triều Tiên cũng là một quân bài mặc cả tốt và TQ có vẻ đang dùng như công cụ gây áp lực khi Kim Chang Un tuyên bố tình trạng chiến tranh cuối ngày 21/08. Nhưng điều chắc chắn là TQ sẽ suy yếu, tới mức nào thì còn phụ thuộc vào game theory toàn cầu mà Việt Nam hiện cũng đã chen được một chân vào đó.
P/S Và nhận định bổ sung tình hình trong phần trả lời commnet:
Mỹ và Trung Quốc khác nhau rất xa. Dotcom rớt quãng năm 2000 là câu chuyện của một ngành trong nền kinh tế. Công nghệ Mỹ và thung lũng Silicon chuyển sang một hướng phát triển mũi nhọn khác mà về sau dẫn dắt bởi sự quật khởi của Apple. Diễn biến 8 năm sau đó trong hệ thống ngân hàng với câu chuyện của Barron thực ra lại là một câu chuyện khác không mấy liên quan, nó nằm trong phạm trù về quản trị kinh tế và chính sách nhà ở. Trung Quốc phá giá NDT trong bối cảnh kinh tế xấu (khác hẳn những lần Trung Quốc phá giá những năm 1990, khi đó chỉ số vĩ mô của TQ rất ổn) sẽ đem lại hiệu ứng ngược. Dân TQ nếu đổ xô rút tiết kiệm mua vàng và mua usd thì sẽ khiến cán cân vãng lai và cán cân thanh toán TQ có vấn đề, đặc biệt khi xuất khẩu giảm đồng nghĩa nguồn thu ngoại tệ giảm. Trên thị trưởng vốn, xu hướng chuyển vốn đầu tư khỏi TQ giờ đã là một xu hướng chung. Bất kể do chinh trị (đầu tư Nhật tháo lui dần) hay kinh tế (giá nhân công không còn cạnh tranh), tiền vẫn đang chạy ra khỏi TQ. Vốn đầu tư suy thoái tạo nên hiệu ứng kép đối với xuất khẩu: "hàng hoá sản xuất để xuất khẩu suy yếu thêm khi các nhà máy rời đi", tác động này đến trễ hơn, có thể 1 - 2 năm. Quỹ dự trữ ngoại hối của PBOC hiện khoảng 3600 tỷ usd (hụt 47 tỷ chỉ trong tháng 7). Nhìn vào con số thì thấy có vẻ lớn, nhưng nếu xét đến việc nó phải chống lưng cho cơn bão bán tháo NDT mua vàng, ngoại tệ (chưa diễn ra, nhưng nếu diễn ra thì cực kỳ khủng khiếp bởi dân TQ có tính ích kỷ ghê gớm và chưa hết ảm ảnh về thời cách mạng văn hoá, và dân TQ ngày nay thực ra sợ chinh quyền chứ không tin chính quyền), dòng vốn đầu tư (FDI) đang chảy ra, và dòng vốn thoái lui dần trên TTCK, đặc biệt nó vẫn phải đảm bảo cho toàn bộ cán cân 2200 tỷ nhập khẩu trong bối cảnh xuất khẩu có xu hướng giảm. Thêm vào đó, khoản dự trữ này cũng thâm thủng thêm một phần quan trọng trong kế hoạch đầu tư viễn dương (400 tỷ usd) cho dự án con đường tơ lụa mới và vành đai Á Âu phục vụ cho giấc mộng Trung Hoa của Tập Cận Bình, dù kinh tế gặp khó nhưng trong thế đâm lao Tập rất khó dừng lại vì công sức thao quang dưỡng hối 30 nam đổ sông đổ biển nếu phanh ngay. Điều nguy hiểm nhất đối với Trung Quốc vào quỹ dự trữ ngoại hối của nó lại đến từ chính trợ lực lớn nhất của TQ trong những năm qua: "mạng lưới kinh tế Trung Hoa" kết nối hệ thống kinh tế của Hoa Kiều và đại lục trên khắp thế giới. Mạng lưới này chi phối các dòng kinh tế ngầm có thể đào rỗng ngoại tệ của Trung Quốc theo một cách mà PBOC không thể kiểm soát (Trung Quốc không có tự do hoá tài chính nhưng hệ thống kinh tế bang hội hoa kiều khét tiếng nằm ngoài mọi sự quản chế mà chinh quyền TQ không với tới). Anh Lãng sẽ làm một thiên Lãng luận riêng phân tích về câu chuyện này. Tất nhiên là Trung Quốc không chết ngay, thậm chí nó có thể thoát hiểm nếu thành công đẩy Nga ra làm bia hứng đạn chính cho hỏa lực chế tài kinh tế của Mỹ và Châu Âu. Triều Tiên cũng là một quân bài mặc cả tốt và TQ có vẻ đang dùng như công cụ gây áp lực khi Kim Chang Un tuyên bố tình trạng chiến tranh cuối ngày 21/08. Nhưng điều chắc chắn là TQ sẽ suy yếu, tới mức nào thì còn phụ thuộc vào game theory toàn cầu mà Việt Nam hiện cũng đã chen được một chân vào đó.
hay
Trả lờiXóaliked
Trả lờiXóa