Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2015

Lục tỉnh kinh lý ký

Anh đi kinh lý 6 tỉnh biên giới để kiểm tra tình hình trong bối cảnh thời cuộc có xu hướng diễn biến phức tạp. Để tránh gây phiền phức cho các đơn vị địa phương, anh đi một mình và không báo trước. Hơn nữa, một vài bạn thân rất hợp tính anh như Sầm Đức Xương nay đã ngồi tù, chỉ vì tạo điều kiện cho các cháu học sinh cấp 2 Hà Giang kiếm thêm thu nhập giúp đỡ gia đình bằng vốn tự có, hay cựu chủ tịch tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô cũng vì quan hệ bạn bè thân thiết với Sầm Đức Xương, có phúc cùng hưởng, có thịt cùng chia mà nay đã lui về nghiên cứu lịch sử Đảng và chủ nghĩa Mác trong biệt thự riêng. Các đồng chí lãnh đạo mới lên thì đang bận rộn chạy dự án nặn tượng 1400 tỷ để thể hiện quyết tâm và tình cảm vô bờ bến của bà con Tây Bắc với Bác Hồ: Dẫu có thất học, dẫu có thiếu ăn nhưng bà con Tây Bắc quyết tâm dù mặc quần đùi cũng phải dựng tượng Bác. Các đồng chí địa phương bận rộn như vậy, để tránh anh em bày vẽ rình rang tốn kém đón tiếp, anh đi bí mật, và lần đầu tiên, tự lái trên các cung đường giáp biên giới.

Anh từng nhiều lần đi công cán lục tỉnh phía Bắc. Nhưng toàn ngồi phưỡn bụng chờ đến nơi thì xuống bắt tay chào hỏi dự tiệc rồi về. do quan liêu nên anh mù đường. Để tránh nguy cơ lãnh tụ ngồi văn phòng nhiều, bụng bự nguy cơ sớm liệt dương mà lại xa rời quần chúng, lần này anh dành vài ngày, đi xuyên từ Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Sơn La rồi vòng về Hà Nội, nhằm kiểm tra thực địa lên kế hoạch phòng thủ trong trường hợp Trung Quốc tấn công.

Mò lên Cao Bằng, anh lọ mọ dò theo cung đường 3B, ngoằn nghèo trên bản đồ. Do sinh lý khỏe nhưng địa lý yếu, tới 8h30 tối anh mới mò tới Yến Lạc. Đêm tối mịt mù, anh đành nghỉ lại với đồng bào địa phương, tiện thể thăm nom các gia đình có công với cách mạng. Sáng sớm hôm sau anh mò dậy lúc 5h30, tiếp tục đi theo đường đèo 3B, lên thăm chiến trường Thất Khê cũ. Qua Yến Lạc 8 km, thấy rõ vùng biên giới được lãnh đạo địa phương rất quan tâm chăm chút trên tinh thần cảnh giác cao độ với Trung Quốc. Đoạn đường đèo chắc phải 10 năm chưa được tu tạo, dốc khoảng 20 độ, cung đèo lầy đất. Anh Lãng liều mạng thóp bụng bia nghiến răng đạp chân ga, gần đến đỉnh đèo thì gặp hai vệt sống trâu sâu 40 cm lầy đất, đầu xe quay ngang và tí thì lật ngửa. Trong 15 phút kế tiếp, anh cài số lùi và để bốn bánh xe trượt trên đất lầy với nguy cơ không biết lúc nào tụt xuống vực. Dù bụng có nặng bia nhưng thần kinh anh vẫn còn cứng như thép nguội nên an toàn rút xuống chân đèo. Có đi thực tế mới thấy các đồng chí địa phương đã bố trí sẵn trận địa chờ Tầu. Riêng cái cung đèo này thì Khựa có đem tăng type 98 sang cũng nằm chết dí vì lầy đất. Ta bố trí một đại đội cũng đủ chặn được một quân đoàn bộ binh cơ giới hợp thành. Tuy bà con địa phương sinh hoạt kham khổ đói khát vì đường xá hiểm hóc nát bét như voi dày, nhưng trên tinh thần giàn trận đón lõng quân thù, anh tán thành việc xây tượng đài 1400 tỷ, còn đường xá nát bét bao năm bà con vẫn kiên cường chịu được, như vậy là rất tốt.

Yên tâm với mặt trận Yến Lạc - Thất Khê, anh vòng đầu xe về quốc lộ 3, theo đèo gió rồi lên tới Cao Bằng. Đến đây thì các đồng chí địa phương nghe phong phanh lãnh tụ Lãng vi hành kinh lý nên cử một xe cảnh sát tới chạy dep đường. Được một lát,anh em bên Tỉnh đội nghe tin cũng cho một xe biển đỏ tới hộ tống. Thấy anh em bày vẽ phiền phức anh Lãng bỏ ngang không ghé Cao Bằng mà tạt ra Bản Giốc. Đồng bào chiến sỹ ở đây giữ thác rất tốt dù Tàu Khựa đã khợp mất một nửa phần thác đẹp nhất sau hiệp định phân giới. Anh vẫy bác chèo ghe lượn về phía bờ Tàu, ghé sát cột mốc của Khựa rồi hiên ngang đứng đái. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng quyết tâm đứng đái về mốc Khựa của anh là không gì có thể lay chuyển được.

Một số hình ảnh trong chuyến kinh lý:
- Đoạn đường đèo cách Yến Lạc 8km về phía Thất Khê. Tăng Tàu qua đây đảm bảo lộn cổ xuống vực.
- Các đồng chí bên Công An tỉnh và anh em bên tỉnh đội nghe tin tới dẹp đường và hộ tống.

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2015

Ý nghĩa của blog

Nói cho đúng thì đó là ý nghĩa của trang blog này.

Gần đây anh thấy bộ đếm google thông báo sự gia tăng đột biến của người đọc trên trang blog này. Cũng không rõ các bạn tìm kiếm đường dẫn từ đâu bởi thực tế trang web này chỉ là nơi lưu các thiên Lãng luận dự phòng cho facebook.

Khác với yahoo đã bước vào giai đoạn suy tàn (Và do đó trang Lãng tuyển trên yahoo đã chết sặc tiết từ nhiều năm trước), Google dường như vẫn đang ở thời kỳ đỉnh cao. Anh hy vọng rằng sẽ chưa cần phải tính toán tới chuyện dọn nhà nhằm bảo đảm an toàn cho những bài viết anh đăng lên net.

Dù sao thì nếu các bạn cần chia sẻ thêm các ý kiến, các lập luận về những bài viết của anh, các bạn có thể vào trang facebook này:

https://www.facebook.com/Langlanhtu

Hiện nay thì facebook đang là công cụ chính mà anh chia sẻ thêm các ý kiến tranh luận bên cạnh các bài phân tích.

Câu chuyện Thiên Tân - Một thập kỷ suy tàn???

Nỗ lực phá giá tiền tệ để tăng sức mạnh cạnh tranh đang là trung tâm của các hoạt động chính sách vĩ mô chiến lược của Trung Quốc trong năm 2015. 3 lần phá giá liên tiếp (2% ngày 11/08; 1,6% ngày 12/08; 1,1% ngày 13/08) và một lần điều chỉnh tăng nhẹ giá NDT (0,05% ngày 14/08) cho thấy Trung Quốc rất chủ động và mạnh tay trong chính sách tiền tệ. Với 3 đợt phá giá liên tiếp trong 3 ngày và một lần điều chỉnh tăng nhẹ nhằm hạn chế bớt các cú sốc thị trường, đây là những giải pháp đã được tính toán kỹ có tính chủ động chứ không bị động. Phần lớn các kinh tế gia trên thế giới đều cho rằng hành động của Trung Quốc là phù hợp lẽ tự nhiên. Những tín đồ sùng bái thị trường tự do từ lâu cho rằng sự can thiệp của Trung Quốc vào thị trường tiền tệ và tỷ giá diễn ra trong một thời gian dài và làm méo mó thị trường. Phần lớn các nhà kinh tế học nửa mùa vốn coi thị trường tự do là thánh kinh tối cao hồ hởi cho rằng kỷ nguyên suy tàn đã đến với Trung Quốc. Loài người vốn chóng quên, trí nhớ của các kinh tế gia lại càng tệ hại. Hơn 30 năm qua, đã nhiều lần Trung Quốc chứng minh mô hình kinh tế của nó phát triển theo những quy luật hoàn toàn khác với chuẩn mực kinh tế của thế giới phương tây. Dù là cảm quan (perception) hay lượng hóa (quantitative - prediction), cần có nhìn nhận rất khác để đưa ra một cái nhìn viễn kiến về Trung Quốc trong thập kỷ đầy sóng gió này.

Khá buồn cười vì các chuyên gia kinh tế bán chuyên (Khái niệm chung cho những người có "bằng cấp" nhưng thiếu kiến thức) ở Việt Nam hăm hở kết luận rằng Việt Nam cần phá giá ngay và luôn, càng cao càng tốt, thậm chí gấp đôi mức phá giá NDT để cạnh tranh lợi thế trong xuất khẩu và khắc phục dòng thương mại nhập siêu nặng nề từ Trung Quốc. Đây là lối tư duy thiển cận nếu không muốn nói là ngu dốt. Nó làm người ta nhớ lại khái niệm nhà kinh tế học một tay "The one-handed economist" mà Harry Truman từng mỏi mắt tìm kiếm vào thập niên 1950. Trong các vấn đề kinh tế vĩ mô, luôn có sự liên kết phức tạp và tác động qua lại giữa các nhân tố, các chính sách và các diễn biến thực tế của thị trường. Mọi quyết sách quốc gia, không thể là bãi thử của những thứ tư tưởng có vẻ ngoài thông thái nhưng nội hàm rỗng tuếch, đặc biệt là những thứ tư tưởng mang vẻ hào nhoáng của giá trị thị trường tự do.

Việc tranh luận về khiếm khuyết của các quy luật thị trường đến giờ không còn cần bàn cãi. Điều mà hầu hết các nhà nước trên thế giới tìm kiếm, không phải là việc có can thiệp hay không mà là mức độ nào của sự can thiệp nhà nước vào thị trường được cho là phù hợp. Mỗi quốc gia có lời giải riêng, có thể đúng hoặc sai. Riêng với Trung Quốc, nó gần như đúng liên tục tính từ năm 1976 đến 2015, nghĩa là đã gần 40 năm chẵn. Cho đến khi cú sốc đầu tiên diễn ra trên thị trường chứng khoán, khi hơn 141 tỷ USD được TQ ném vào vẫn không vãn hồi nổi sự suy giảm của thị trường. Câu chuyện nghiêm trọng hơn đến với Trung Quốc khi xuất khẩu nước này liên tục suy giảm. Mức xuất khẩu tháng 07/2015 thậm chí đã giảm tới 8,3% so với cùng kỳ. Đây là một cú sốc nặng nề, bởi sự thần kỳ trong 40 năm qua của Trung Quốc chính là xuất khẩu.

Kỷ nguyên của Tập Cận Bình bắt đầu từ ngày 15/11/2012. Là thành phần con ông cháu cha, thuộc thế hệ "Phú Nhị Đại" (Con cháu đời thứ hai) của lớp công thần khai quốc, Tập được coi là thế hệ lãnh đạo sẽ quyết tâm gìn giữ di sản của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, hà hơi cho chính thể độc tài có hạng này và giúp nó tồn tại dài lâu hơn trong thế kỷ 21. Châm ngôn của Tập Cận Bình, là tìm cách xây đắp giấc mộng Trung Hoa. Tập nhấn mạnh vào viễn cảnh Trung Quốc hùng cường thống trị thế giới để kích động tinh thần của người Trung Quốc và lờ tịt đi việc liệu Đảng Cộng Sản Trung Quốc có làm gì để xóa bỏ bất công và nới lỏng dân chủ cho người dân của nó hay không. Sự lập lờ này của Tập có lẽ sẽ thành công nếu Trung Quốc cứ tiếp tục tăng tốc như nó đã từng trong suốt 40 năm qua. Tuy nhiên thực tế cho thấy điều đó là không thể. Sự khó khăn ngày hôm nay của Trung Quốc đến từ 3 nguyên nhân chính, phần lớn đều là những tác nhân không thể khắc phục một sớm một chiều, thậm chí nằm ngoài tầm với của các chiến lược gia Trung Quốc:

1. Nhân tố thứ nhất: Sự bùng phát bong bóng quá mức của thị trường chứng khoán. Liên tục được bơm phồng trong suốt thời gian Tập bắt đầu nắm quyền, nhằm hai mục đích: Tạo sự gia tăng ảo của giá trị tài sản của công dân TQ khi giá chứng khoán liên tục tăng; Và tạo cơ hội cho việc bán tống các tài sản nhà nước với mức giá cao nhằm đẩy nhanh việc tích lũy tài sản nhà nước. Chính sách này là một hợp phần của chính sách lớn, theo đó Tập muốn thúc đẩy kinh tế TQ đến năm 2030 bằng việc kích cầu tiêu dùng của thị trường 1,5 tỷ người nội địa, thay thế cho thị trường xuất khẩu vốn ngày một khó khăn. Biện pháp này của Tập lặp lại sai lầm của Việt Nam năm 2007 (dù cơn điên loạn chứng khoán của Việt Nam diễn ra một cách tự phát chứ chính phủ và giới lập chính sách Việt Nam trên thực tế chẳng có chính sách nào có thể coi là dài hạn). Tuy nhiên, có thể khẳng định sự suy sụp của thị trường chứng khoán Trung Quốc là không thể chặn lại được. Nó sẽ dẫn đến một kịch bản giống hệt những gì diễn ra ở Việt Nam, tài sản của các nhà đầu tư nhỏ lẻ bốc hơi trong lúc nhiều tay chơi lớn đã đóng tài khoản và dông ra ngoại quốc. Điều nguy hại hơn, là sức mua của thị trường nội địa sẽ suy giảm nhanh chóng, nền kinh tế đi vào giai đoạn trì trệ do tâm lý u ám của người dân. Điều này khiến chính sách tăng trưởng dựa vào kích cầu nội địa của Tập Cận Bình phá sản.
Sự thay đổi số lượng các tài khoản giao dịch trên thị trường chứng khoán Trung Quốc trong tháng 7 so với tháng 6

2. Nhân tố thứ hai: Sự đổ vỡ của thị trường Bất động sản Trung Quốc. Giống như Việt Nam nhưng ở một quy mô lớn và có tính tàn sát cao hơn, giới đầu cơ giàu có đến mức kinh khủng của Trung Quốc vốn được hình thành từ quá trình phân phối bất công trong 40 năm qua đã làm nên một thị trường bất động sản tăng trưởng nóng và định giá vượt tầm với của hơn 90% dân số Trung Quốc. Giá nhà tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân ... và đại bộ phận các đô thị lớn của Trung Quốc từ lâu là một dạng tài sản chỉ phù hợp với khả năng của 10% dân số Trung Hoa, những thành phần thân hữu của bộ máy cầm quyền, tích tụ tài sản dựa trên quan hệ và các cơ hội kinh doanh bất bình đẳng. Thị trường bất động sản kỳ quái ấy tồn tại trong nhiều thập niên và liên tục gia tăng mức độ kỳ quái của nó khi liên tục tăng giá vượt ngưỡng của đại bộ phận những người tiêu dùng đầu cuối (những người thực sự có nhu cầu nhưng không có khả năng chi trả). Cơn sốt chứng khoán tạo ra một sự gia tăng tài sản ảo khiến thị trường bất động sản tăng trưởng nóng tồn tại thêm được một thời gian. Cùng với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, sự sụp đổ của thị trường bất động sản Trung Quốc là một diễn biến tất yếu. Trong ngắn hạn, dòng tiền rút ra từ chứng khoán sẽ đổ vào bất động sản và có thể tạo một cơn sốt ngắn và duy trì thị trường này thêm một vài tháng, nhưng sự suy sụp tài sản sẽ nhanh chóng quét sạch các nhà đầu cơ và diễn biến của nó là đổ vỡ. Hệ lụy kéo liền theo đó là nợ xấu ngân hàng nhanh chóng gia tăng, khi các khoản vay dính dáng đến chứng khoán và bất động sản gặp vấn đề. Ngoài ra, giá bất động sản giảm còn dẫn tới tài sản thế chấp ròng của các khoản vay suy giảm, tạo thêm cơn khủng hoảng kép đối với nợ vay ngân hàng. Điều may mắn là Trung Quốc có thể nhìn sang Việt Nam để tham khảo diễn biến 2007 - 2015 làm bức tranh tham khảo. Điều bất hạnh là quy mô tàn phá ở Trung Quốc sẽ lớn hơn những gì ở Việt Nam gấp rất nhiều lần.

3. Và nhân tố chính đe dọa giấc mộng Trung Hoa trong thế kỷ 21: Cuộc chiến thương mại khốc liệt mà Mỹ, Nhật và các đồng minh phương tây đang tiến hành nhằm ngăn chặn sức mạnh của nền kinh tế Trung Quốc thông qua hàng hóa xuất khẩu. Diễn biến thực tế của xu hướng này đã liên tục định hình kể từ 2013, khi chiến lược xoay trục sang phía Đông của Mỹ ngày một rõ nét và cuộc khủng hoảng Hy Lạp khiến châu Âu ngày một khắt khe hơn đối với hàng hóa nhập khẩu China. Không may, trong cùng thời kỳ, Tập Cận Bình ngày một hung hăng tại Hoa Đông và Biển Đông, khiến Mỹ, Nhật và các đồng minh phương tây ngày một quyết đoán hơn trong việc kiềm chế sức mạnh kinh tế Trung Quốc. Không thể đắp đê cô lập như thời kỳ chiến tranh lạnh với Liên Xô, Mỹ chuyển sang việc xây dựng các khối liên minh kinh tế mà Trung Quốc buộc phải đứng ngoài, và dựng ra các hàng rào kỹ thuật ngày một khắt khe để chặn hàng Tàu. Kết quả là xuất khẩu của Trung Quốc vào Nhật Bản giảm tới 13%, vào EU giảm tới 12 % và vào Mỹ giảm xấp xỉ 2%. Cả Mỹ và Trung Quốc đều thừa hiểu rõ, sau khi TPP thành hình, đà suy giảm xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường lớn nhất và quan trọng nhất thế giới là nước Mỹ sẽ giảm không dưới 10%. Lỗ hổng sẽ được lấp đầy nhanh chóng bởi các nền kinh tế mới nổi đến từ châu Á có tham gia TPP như Việt Nam, Malaysia .... Đây sẽ thực sự là một thập kỷ ác mộng với nền kinh tế Trung Quốc.
 
Cần lưu ý rằng chính phủ Trung Quốc trong 40 năm qua đã rất thành công trong việc can thiệp thị trường, khiến Trung Quốc vươn lên thành một siêu cường có quy mô ngang với nền kinh tế khổng lồ của Mỹ nếu tính theo sức mua tương đương PPP. Đã nhiều lần các chiến lược gia Trung Quốc khiến đám học giả phương tây vốn sính chữ nghĩa hơn là năng lực thực tế (Phần lớn đám giáo sư, học giả kinh tế thực ra lại là những người rất kém hiểu biết về kinh tế, minh chứng là hầu hết đám này không có khả năng kinh doanh) phải muối mặt vì những dự báo sai lầm. Tuy nhiên, lần này có vẻ đám học giả đã gặp may, vì quả thực sự thần kỳ 40 năm của Trung Quốc đã đến hồi kết với các diễn biến trên thực tế của thị trường và các quyết sách mang nặng tính địa chính trị của Mỹ, Nhật cũng như các đồng minh phương Tây. Những cú bồi liên tiếp này khiến Trung Quốc khó bề gượng lại trong thời gian tới.

Trung Quốc không ngồi yên. Cú phá giá nhân dân tệ cường độ thấp vừa rồi là biện pháp "xuất khẩu khủng hoảng" ra thế giới đầu tiên. Mục đích trực tiếp của động thái này, là nhằm vãn hồi năng lực cạnh tranh cho hàng hóa Maded in China. Sâu xa hơn, là một cuộc chiến tiền tệ đánh trực tiếp vào hai nền kinh tế cạnh tranh chính yếu của Mỹ và Nhật Bản. Ở một mức độ thấp hơn, đây cũng là đòn đánh trực diện vào nền kinh tế Việt nam, nhằm tăng thêm mức độ nhập siêu và biến đất nước được cai trị bởi một đám ăn hại trong nhiều năm lệ thuộc mạnh hơn nữa vào Trung Quốc. Ý nghĩa địa chính trị của động thái này không hề nhỏ, khi đặt trong bài toán tổng thể về kế hoạch vươn xa ra các đại dương của Trung Quốc trong thế kỷ 21. Câu hỏi đặt ra là Trung Quốc sẽ phá giá đến mức độ nào?

Tác động phá giá tiền tệ, là hai mặt của một vấn đề. Nó giúp gia tăng xuất khẩu nếu các nhân tố thị trường là không đổi (Anh Lãng nhấn mạnh là không đổi), mặt khác, nó có tác động tiêu cực tới sức mua nội địa khi giảm thu nhập thực tế của người dân. Phá giá tiền gây lạm phát, nhưng lại bị triệt tiêu khi sức cầu nội địa suy giảm, thậm chí có thể dẫn tới giảm phát. Tác động tiêu cực lớn nhất của nó, là ảnh hưởng đến dòng tiền trả nợ nước ngoài. Quốc gia có nợ công càng lớn, dư địa cho chính sách phá giá tiền càng nhỏ. Thực tế của Trung Quốc thì sao?

Thống kê nợ nước ngoài của TQ tính đến tháng 2/2014 trên GDP

Nghiên cứu năm 2014 của Cơ quan quản lý ngoại hối Trung Quốc (SAFE) đưa ra con số nợ nước ngoài vào khoảng 823 tỷ USD vào cuối 2013, đầu 2014, nghĩa là nợ nước ngoài của Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 9% GDP. Tuy nhiên, theo chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP), Stephen Green - giám đốc Ngân hàng Standard Chartered cho rằng, tổng khoản nợ quốc tế của Trung Quốc thậm chí lên tới 3,8 nghìn tỷ USD vào tháng 9/2013, chiếm 43% tổng GDP. Đây là một con số lớn hơn gấp nhiều lần con số do SAFE đưa ra. Sự chênh lệch này được giải thích bởi hai lý do chính: thứ nhất, cơ quan Quản lý ngoại hối Trung Quốc chỉ tính số nợ bằng ngoại tệ mà chưa cộng số nợ bằng tiền Nhân dân tệ của Trung Quốc; thứ hai, SAFE đưa ra con số không bao gồm FDI.

Trong trường hợp này, thống kê của SAFE có ý nghĩa hơn bởi các khoản nợ nước ngoài chỉ gây khó khăn cho Trung Quốc khi nó là nợ quốc tế và được yết giá bằng ngoại tệ. Việc cộng dồn nợ vay tín dụng quốc tế tính bằng nhân dân tệ chẳng khác là mấy trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ được lưu hành toàn cầu với châm ngôn "Nợ là của chúng tôi, nhưng vấn đề là của các bạn" khi nó có thể được tất toán bằng đồng tiền của nước đi vay.

Tỷ lệ 9% GDP nợ nước ngoài bằng ngoại tệ khiến Trung Quốc có dư địa rất lớn trong chính sách phá giá tiền, vì tác động của việc phá giá NDT đến sự an toàn của dòng tiền trả nợ nước ngoài hoàn toàn có thể được kiểm soát tốt. Hơn nữa, việc phá giá dưới 5% không mang lại sức bật vượt trội nào cho dòng hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc. Chắc chắn rằng các chiến lược gia của Tập Cận Bình sẽ chờ đợi sự phản hồi của thị trường trong một vài tháng tới để đưa ra thêm các phản ứng mạnh hơn. Gần như có thể tin chắc rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục hạ giá NDT để tìm cách thúc đẩy nền kinh tế ì ạch khi hy vọng tăng trưởng cầu nội địa đã mất hút với sự đổ vở của thị trường chứng khoán và bất động sản. 10% là một con số được chờ đón về mức phá giá NDT tính đến đầu năm 2016.

Tác động tới Việt Nam

Là một quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc, kết quả của gần một thập niên cai trị yếu kém của chế độ tham nhũng ăn hại tại Ba Đình, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nặng nề. Mức nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc tính trong 7 tháng đầu năm 2015 đã lên tới 19,4 tỷ USD, tăng thêm tới 4,5 tỷ USD về giá trị tuyệt đối so với cùng kỳ. Dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng đà lệ thuộc vào mối đe dọa chủ quyền của nó một cách chắc chắn và bền vững. Đây là sự thật cay đắng mà người Việt đang phải đối mặt, do tài năng cai trị của đám chóp bu đốn mạt tại Ba Đình trong hơn 10 năm qua.

Tuy nhiên, nếu nghe theo những gì mà đám kinh tế gia của Việt Nam xúi dại, ồ ạt phá giá VND, thậm chí có ý kiến nên phá giá VND tới 10 - 12% để đón đầu cạnh tranh xuất khẩu trong cuộc chiến tiền tệ Trung Quốc đang tiến hành, một ý kiến vô cùng tai hại khi nó nhìn nhận vấn đề quá mức một chiều, cái sẽ khiến kinh tế Việt nam rơi vào một vực thẳm không thấy lối ra.

Thứ nhất, cần xem xét rất kỹ cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc. Thống kê chính thức, có tới 80% hàng nhập từ Trung Quốc thuộc nhóm hóa chất, sản phẩm trung gian (bán thành phẩm) và máy móc thiết bị. Chỉ 20% là hàng tiêu dùng. Nếu hiểu theo ý nghĩa này, thì việc phá giá NDT sẽ không gây làn sóng ồ ạt tràn ngập mới của hàng Trung Quốc tại Việt Nam ngay lập tức (nhưng về lâu dài sẽ tiếp tục trói chặt Việt Nam). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng giữa số liệu của Tổng cục thống kê TQ và Tổng cục thống kê VN có một khoản chênh tới 20 tỷ giá trị hàng hóa TQ xuất vào Việt Nam. Dù Tổng cục thống kê Việt Nam biện bạch rằng con số chênh lệch này có thể xuất phát từ cách tính khác nhau về xuất xứ hàng hóa, tuy nhiên nói trắng ra thì ai cũng hiểu chênh lệch này chính là hàng TQ nhập lậu tràn ngập qua biên giới trong sự tiếp tay của lực lượng hải quan, quản lý thị trường và nhiều cấp chính quyền Việt Nam, vốn từ lâu ăn chia chặt chẽ với nguồn lợi nhuận từ buôn lậu và sống chết mặc bay với quyền lợi quốc gia. Nếu ghi nhận dù chỉ một nửa con số thống kê chênh lệch này, thì tác động của chính sách phá giá NDT đối với nền kinh tế Việt Nam sẽ nguy hại hơn con số thống kê chính thức gấp nhiều lần. Phá giá mạnh VND xem ra là một giải pháp cần phải tiến hành một cách quyết đoán và mạnh mẽ.

Tuy nhiên, ở một góc độ khác, nợ công của Việt Nam hiện đã đến gần sát ngưỡng trần 65% GDP. Mọi biện pháp phá giá VND sẽ tác động ngay và tức thời tới dòng tiền trả nợ nước ngoài của Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh ngân sách đang thâm hụt nặng nề và chính phủ Việt Nam vừa mới viện dẫn tới gói vay tới 30.000 tỷ từ Ngân hàng nhà nước nhằm bù đắp cho cái rỏ đốt tiền thủng lỗ chỗ của ngân sách quốc gia. Phá giá VND với một tỷ lệ cao, có thể dẫn tới tình trạng vỡ nợ nếu nguồn trả nợ nước ngoài không cân đối kịp. Tỷ lệ nợ công quá cao khi sức khỏe của nền kinh tế yếu kém khiến dư địa cho chính sách tiền tệ của Việt Nam không nhiều.

Thống kê nợ công Việt Nam 2004 - 2014

Tuy nhiên, nếu có điều gì đó được cho là đáng mừng thì đó chính là cơ cấu chủ nợ của Việt Nam:


Biểu đồ trên cho thấy chủ nợ lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật Bản, chiếm tới 34,5% tại thời điểm 2012. Nếu số nợ này được tính bằng đồng Yên thay vì USD thì vấn đề của Việt Nam không nặng nề như ta tưởng. Nhật Bản, trong gói kích thích kinh tế Abenomics, liên tục điều chỉnh hạ giá đồng Yên để kích thích xuất khẩu. Việc Trung Quốc phá giá mạnh NDT chắc chắn sẽ khiến Nhật Bản mạnh tay hơn trong phá giá đồng Yên. Do đó, dư địa phá giá VND sẽ lớn hơn khi một phần quan trọng nơ nước ngoài là Yên Nhật thay vì USD.

Do đó có thể nói việc Việt Nam nới rộng biên độ ngoại tệ thêm 2% (1% ngày 12/08 và thêm 1% vào ngày 19/08), đồng nghĩa với phá giá VND 2% là một biện pháp đúng và phù hợp.

Với những phân tích về cơ cấu nợ nước ngoài, dư địa chính sách tiền tệ của Việt Nam và mức độ phá giá dự kiến của Trung Quốc tính đến đầu năm 2016, nhiều khả năng, VND sẽ được phá giá tối đa 5% vào cuối năm nay.

Câu chuyện bi kịch của Việt Nam chỉ thực sự có lối thoát khi cánh cửa TPP mở ra, mà theo như cam kết của ngoại trưởng Mỹ Jonh Kerry, thì chắc chắn sẽ thành hình trước năm 2016. Cá nhân anh cũng tin rằng điều này có khả năng cao, vì nó phù hợp với lợi ích chiến lược của nước Mỹ trong thế kỷ 21.

Chúng ta đành phải hy vọng rằng đám ăn hại đốn mạt tại Ba Đình, lần này sẽ không làm lỡ chuyến tàu lịch sử của dân tộc. Nếu bỏ lỡ TPP, chúng ta đành ngậm ngùi nhìn viễn cảnh ngày một chìm sâu vào vòng xoáy lệ thuộc kinh tế với Trung Quốc.

Và Câu chuyện Thiên Tân - Một thập kỷ suy tàn???

Trong một bức tranh không lấy gì sáng sủa, vụ nổ kinh khủng tại Thiên Tân dường như là điểm sáng le lói hiếm hoi. Có nhiều đồn đoán khác nhau về nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của vụ cháy nổ kinh khủng vừa rồi tại Thiên Tân, nơi được dự kiến là thủ phủ mới của Trung Quốc thay thế đô thị đã quá tải và ô nhiễm đến mức khó tồn tại là Bắc Kinh. Chính phủ Trung Quốc công bố con số chết chóc là 104 người, nhưng dân Trung Quốc đưa ra con số đồn đoán vượt gấp 14 lần, lên tới 1400 người chết. Và số chịu ảnh hưởng lên tới vài chục nghìn người. Hậu quả sẽ còn kéo dài và dai dẳng bởi hóa chất độc dò rỉ từ vụ nổ hiện ngày một khó kiểm soát và ngày một lan rộng vào đất, nguồn nước và không khí. Nguyên nhân của vụ nổ cũng có nhiều đồn đoán. Ý kiến đơn giản nhất thì cho rằng đó thuần túy là một tai nạn và do sự bất cẩn của lực lượng cứu hóa đã khiến vụ nổ trầm trọng hơn. Một lý thuyết âm mưu thì cho rằng đó là kết quả của các hoạt động khủng bố xuất phát từ Cáp Nhĩ Tân. Lý thuyết âm mưu trừu tượng hơn nữa thì cho rằng đó là hoạt động phá hoại của phe nhóm Giang Trạch Dân, nhằm gây bất ổn và khó khăn cho Tập Cận Bình trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc đang khó khăn trầm trọng.

Bất kể câu chuyện diễn ra theo kịch bản nào, thì vụ nổ Thiên Tân, mà mức độ hủy diệt của nó được so với một đơn vị vũ khí hạt nhân loại nhỏ dường như đang báo hiệu một thập kỷ suy tàn của Trung Quốc: Suy thoái kinh tế đi kèm với bạo lực và bắn giết.

Những quốc gia nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc như Việt Nam, lại càng phải cảnh giác hơn vì truyền thống xuất khẩu khủng hoảng của Trung Quốc. Chắc chắn rằng Trung Quốc sẽ không dừng ở việc xuất khẩu các khó khăn kinh tế sang các nền kinh tế xung quanh, khi bạo lực lan tràn trong nội địa, Trung Quốc sẽ xuất khẩu thêm cả bạo lực như một giải pháp cai trị vốn đã thâm căn cố đế trong mọi triều đại của cái đế quốc hung hăng ấy.

P/S Và nhận định bổ sung tình hình trong phần trả lời commnet:

Mỹ và Trung Quốc khác nhau rất xa. Dotcom rớt quãng năm 2000 là câu chuyện của một ngành trong nền kinh tế. Công nghệ Mỹ và thung lũng Silicon chuyển sang một hướng phát triển mũi nhọn khác mà về sau dẫn dắt bởi sự quật khởi của Apple. Diễn biến 8 năm sau đó trong hệ thống ngân hàng với câu chuyện của Barron thực ra lại là một câu chuyện khác không mấy liên quan, nó nằm trong phạm trù về quản trị kinh tế và chính sách nhà ở. Trung Quốc phá giá NDT trong bối cảnh kinh tế xấu (khác hẳn những lần Trung Quốc phá giá những năm 1990, khi đó chỉ số vĩ mô của TQ rất ổn) sẽ đem lại hiệu ứng ngược. Dân TQ nếu đổ xô rút tiết kiệm mua vàng và mua usd thì sẽ khiến cán cân vãng lai và cán cân thanh toán TQ có vấn đề, đặc biệt khi xuất khẩu giảm đồng nghĩa nguồn thu ngoại tệ giảm. Trên thị trưởng vốn, xu hướng chuyển vốn đầu tư khỏi TQ giờ đã là một xu hướng chung. Bất kể do chinh trị (đầu tư Nhật tháo lui dần) hay kinh tế (giá nhân công không còn cạnh tranh), tiền vẫn đang chạy ra khỏi TQ. Vốn đầu tư suy thoái tạo nên hiệu ứng kép đối với xuất khẩu: "hàng hoá sản xuất để xuất khẩu suy yếu thêm khi các nhà máy rời đi", tác động này đến trễ hơn, có thể 1 - 2 năm. Quỹ dự trữ ngoại hối của PBOC hiện khoảng 3600 tỷ usd (hụt 47 tỷ chỉ trong tháng 7). Nhìn vào con số thì thấy có vẻ lớn, nhưng nếu xét đến việc nó phải chống lưng cho cơn bão bán tháo NDT mua vàng, ngoại tệ (chưa diễn ra, nhưng nếu diễn ra thì cực kỳ khủng khiếp bởi dân TQ có tính ích kỷ ghê gớm và chưa hết ảm ảnh về thời cách mạng văn hoá, và dân TQ ngày nay thực ra sợ chinh quyền chứ không tin chính quyền), dòng vốn đầu tư (FDI) đang chảy ra, và dòng vốn thoái lui dần trên TTCK, đặc biệt nó vẫn phải đảm bảo cho toàn bộ cán cân 2200 tỷ nhập khẩu trong bối cảnh xuất khẩu có xu hướng giảm. Thêm vào đó, khoản dự trữ này cũng thâm thủng thêm một phần quan trọng trong kế hoạch đầu tư viễn dương (400 tỷ usd) cho dự án con đường tơ lụa mới và vành đai Á Âu phục vụ cho giấc mộng Trung Hoa của Tập Cận Bình, dù kinh tế gặp khó nhưng trong thế đâm lao Tập rất khó dừng lại vì công sức thao quang dưỡng hối 30 nam đổ sông đổ biển nếu phanh ngay. Điều nguy hiểm nhất đối với Trung Quốc vào quỹ dự trữ ngoại hối của nó lại đến từ chính trợ lực lớn nhất của TQ trong những năm qua: "mạng lưới kinh tế Trung Hoa" kết nối hệ thống kinh tế của Hoa Kiều và đại lục trên khắp thế giới. Mạng lưới này chi phối các dòng kinh tế ngầm có thể đào rỗng ngoại tệ của Trung Quốc theo một cách mà PBOC không thể kiểm soát (Trung Quốc không có tự do hoá tài chính nhưng hệ thống kinh tế bang hội hoa kiều khét tiếng nằm ngoài mọi sự quản chế mà chinh quyền TQ không với tới). Anh Lãng sẽ làm một thiên Lãng luận riêng phân tích về câu chuyện này. Tất nhiên là Trung Quốc không chết ngay, thậm chí nó có thể thoát hiểm nếu thành công đẩy Nga ra làm bia hứng đạn chính cho hỏa lực chế tài kinh tế của Mỹ và Châu Âu. Triều Tiên cũng là một quân bài mặc cả tốt và TQ có vẻ đang dùng như công cụ gây áp lực khi Kim Chang Un tuyên bố tình trạng chiến tranh cuối ngày 21/08. Nhưng điều chắc chắn là TQ sẽ suy yếu, tới mức nào thì còn phụ thuộc vào game theory toàn cầu mà Việt Nam hiện cũng đã chen được một chân vào đó.

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

Nguy cơ chiến tranh Việt Trung và chiến lược phòng vệ của Việt Nam (P2)

Phần 2: Chiến tranh tổng lực và chiến tranh cục bộ, giải pháp cho mối đe dọa hạt nhân

Chính trị, chiến tranh không thể tách rời kinh tế. Sau đây là vài nét về tình hình kinh tế tổng hợp của Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đến cục diện châu Á - Thái Bình Dương.

Ngày 10/08/2015 trong một động thái gây bất ngờ nhưng nằm trong một tổng thể đã được dự đoán từ trước: Trung Quốc phá giá NDT 2%. Ngay sau đó hai ngày, Trung Quốc tiếp tục phá giá đồng NDT 1,6%. Tác động dây truyền của sự kiện lan tràn trên thế giới. Đồng NDT trên thực tế mất giá ngay 4,8%. Một loạt các quốc gia châu Á có phản ứng gần như ngay lập tức. Ngày 11/08/2015 Việt Nam nới biên độ tỷ giá thêm 1%. Một loạt các nước khác có động thái gần như tương tự. Báo hiệu cho một cuộc chiến tiền tệ sắp lan tràn.

Cuộc chiến đã nổ ra về phương diện kinh tế, và liệu cuộc chiến ấy sẽ có tác động như thế nào đến một cuộc chiến tước đoạt sinh mạng con người?

Trung Quốc bước vào thời đại Tập Cận Bình từ năm 2012. Trong một thiên Lãng luận trước đây anh Lãng từng nhận xét về gã Khựa này: "Một gã rắn tay, ưa lối giải quyết bằng bàn tay sắt và bạo lực. Trung Quốc rồi sẽ trả giá vì lối cai trị sắt máu này của Tập, cả tại Tân Cương hay ngay chính từ cuộc chiến thanh trừng thâu tóm quyền lực của Tập Cận Bình". Sau hơn 200 ngày kể từ khi Tập nắm quyền, có vẻ nhận xét này đã được ứng dụng trên tình hình thực tế.

Để tránh sa đà khi bàn luận về tình hình kinh tế chính trị nội tại của Trung Quốc trong bối cảnh một cuộc khủng hoảng đang lan tràn (Sẽ bàn riêng trong một thiên Lãng luận về Tương lai Trung Quốc và sự suy tàn của giấc mộng Trung Hoa", có mấy nhận xét ngắn thế này:

- Cuộc chiến thống nhất quyền lực của Tập Cận Bình đã có một dấu chấm hoàn hảo. Bằng việc bỏ tù Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang, Cốc Tuấn Sơn, Từ Tài Hậu và phó chủ tịch Quân ủy Quách Mạnh Hùng, Tập hiện không còn đối thủ. Ngày 12/08/2015, Tập cho đăng trên Nhân dân nhật báo lời cảnh cáo: "Các lãnh đạo về hưu nên tránh xa chính trị, người đi thì trà cũng nguội", một cái tát vỗ mặt Giang Trạch Dân và có thể là cả Hồ Cẩm Đào. Tập đủ tự tin để truy tố nốt cả Giang nếu cảm thấy quyền lực của mình tiếp tục bị thách thức. Sau thời đại Mao Trạch Đông, Tập là người duy nhất đạt tới đỉnh cao quyền lực gần như tuyệt đối tại Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng chính cuộc chiến quyền lực này đã đào rỗng ruột bộ máy cầm quyền Trung Quốc. Tập đã bỏ tù và truy tố hàng triệu quan chức nhằm lấy tính chính danh cho mình. Bằng cách đó, Tập được lòng dân nhưng những lỗ hổng trong bộ máy cai trị khó lòng bù đắp một sớm một chiều. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc đang đi vào một cuộc khủng hoảng không thể cứu vãn.
- Thị trường chứng khoán Trung Quốc sụp đổ gần như là một kết cục không thể đảo ngược. Từ năm 2012, khi lên nắm quyền, Tập tìm mọi cách duy trì một nền kinh tế với tâm lý thịnh vượng gia tăng, nhằm vẽ lên một giấc mộng Trung Hoa hùng cường trong mắt dân Trung Quốc. Các chính sách và dòng tiền được định hướng để đảm bảo thị trường chứng khoán liên tục tăng cao. Người dân Trung Quốc thấy túi tiền ảo của mình phình lên ghê gớm. Đáng buồn cho Trung Quốc, nó lặp lại những gì mà Việt Nam đã trải qua cách đây 8 năm, khi cơn bão khủng hoảng quét qua thị trường chứng khoán cuối năm 2007. Dù Trung Quốc đã đổ trên 141 tỷ USD để cứu thị trường, nhưng chắc chắn nó sẽ bước vào một thời kỳ suy giảm kéo dài không dưới 5 năm. Cái chết trên thị trường chứng khoán rồi sẽ còn lan rộng sang thị trường bất động sản, kéo theo sự khủng hoảng dây truyền trong hệ thống ngân hàng vì nợ xấu tăng cao. Đây sẽ là một kỷ nguyên suy tàn cho giấc mộng Trung Hoa.
- Các chính sách ngăn chặn kinh tế mà Mỹ định hình có vẻ đang bồi một cú đấm thôi sơn vào nền kinh tế Trung Quốc. Xuất khẩu của Trung Quốc vào Nhật đã giảm 13% so với cùng kỳ, vào EU đã giảm 12% và vào Mỹ cũng đã giảm trên dưới 2%. Trong bối cảnh khó khăn trong nước lan tràn thì đây là những đòn chí mạng, tổng hợp chung, xuất khẩu của Trung Quốc đã giảm 8,3% trong tháng 7/2015. Khi TPP thành công, Trung Quốc sẽ còn gánh thêm các cú bồi nặng nề và tiếp tục phải đối mặt với đà suy giảm của dòng thương mại xuất khẩu.
- Nỗ lực khôi phục dòng thương mại xuất khẩu vốn là thứ đã làm nên điều thần kỳ cho nền kinh tế Trung Quốc suốt 50 năm, Tập Cận Bình cho phá giá đồng tiền. Anh Lãng nhận định rằng biện pháp này chắc chắn sẽ thất bại, bởi bối cảnh thế giới ngày nay không còn như thời kỳ những năm 1990, khi Clinton dung dưỡng và chấp nhận một đồng NDT định giá yếu trong nền kinh tế toàn cầu. Chính sách kiềm chế Trung Quốc gần như đã định hình trong thế giới phương Tây, do đó mọi hành động phá giá tiền của Trung Quốc nhằm kích thích xuất khẩu gần như sẽ gặp các đòn đáp trả ngay lập tức. Vấn đề lớn hơn thế, bởi hàng hóa Trung Quốc hiện nay không phải chỉ bị ngăn chặn bởi các nhân tố thị trường (tỷ giá) mà còn bằng cả các hàng rào pháp lý và chính sách (TPP là một điển hình). Do đó, bất kể đồng NDT bị phá giá đến mức nào thì đà suy giảm của dòng hàng hóa xuất khẩu Trung Quốc là mặc định.
- Tham vọng lớn nhất của Tập Cận Bình là đưa NDT thành một đồng tiền quốc tế, cạnh tranh với vị trí thống trị của USD. Bằng việc phá giá NDT 3,6% trong ít ngày, Tập kéo lùi giấc mơ này thêm 20 năm, nếu thực sự TQ còn có cơ hội gượng dậy sau cú sốc.
- Chính sách cai trị sắt máu của Tập tại Tân Cương, Tây Tạng rồi sẽ khiến Trung Quốc trả giá nặng nề. Khi kinh tế suy tàn, khủng hoảng rồi sẽ lan rộng trong xã hội Trung Hoa, vốn từ lâu còn rất ít sự gắn kết dựa trên nhân tính. Thế giới sẽ chứng kiến một kỷ nguyên bắn giết và bỏ tù tại Trung Quốc.

Khủng hoảng Trung Quốc không làm thế giới an toàn hơn mà là ngược lại. Không giống Liên Xô, vốn còn mang đôi nét văn minh châu Âu, cuối cùng đã sụp đổ trong hòa bình, Trung Quốc chắc chắn sẽ tìm cách xuất khẩu khủng hoảng ra thế giới nhằm ổn định tình hình trong nước. Chính vì thế, mối đe dọa chiến tranh của các nước giáp giới Trung quốc không những không giảm đi khi đất nước này suy yếu mà là ngược lại. Cần nhớ rằng năm 1979, một trong những lý do Đặng Tiểu Bình xua quân xâm lược Việt Nam là nhằm cố kết xã hội Trung Quốc sau nhiều thập niên suy tàn dưới thời đại cai trị Mao Trạch Đông.

Việt Nam và các nước láng giềng của Trung Quốc buộc phải cảnh giác tối đa, tận dụng mọi cơ hội để nâng cao sức mạnh tổng hợp về kinh tế, chính trị, quốc phòng và củng cố các liên minh, nhằm có đủ sức mạnh để ngăn ngừa hoặc trụ vững trước các chính sách hiếu chiến mới của Trung Quốc, cho đến khi quốc gia khát máu ấy đủ suy tàn để phải thu mình và ngừng đe dọa các nước xung quanh.

Chúng ta buộc phải tiếp tục bàn về chiến tranh, trong lúc mưu cầu cho một nền hòa bình lâu dài.

NGUY CƠ VỀ MỘT CUỘC CHIẾN TRANH TỔNG LỰC VIỆT TRUNG

Nguy cơ này không lớn, nhưng vẫn buộc phải đặt ra vì thế giới này vốn không có điều gì là không thể. Lịch sử Việt Nam chỉ xét riêng từ thế kỷ thứ 10, đã không dưới 10 lần phải đối mặt với các đạo quân xâm lăng từ Trung Quốc
Tham khảo thiên Lãng luận - Việt Nam Trung Quốc, một lịch sử đau thương http://langlanhtu.blogspot.com/2014/06/viet-nam-trung-quoc-mot-lich-su-au_1.html
Trong thế kỷ 20, Việt Nam phải liên tục đánh nhau với 3 cường quốc: Pháp, Mỹ và Trung Quốc. Chưa tính đến cuộc chiến khốc liệt với Ponpot ở biên giới Tây Nam. Lịch sử chiến tranh khiến người Việt khao khát hòa bình, nhưng họ cũng chứng minh bằng xương máu của hàng nghìn thế hệ về khả năng bảo vệ đất nước. Do đó có thể nói Trung Quốc gần như không thể có hy vọng tiêu diệt Việt Nam trong một cuộc chiến tranh tổng lực. Điều đó khiến chúng ta có nhiều cơ sở để loại trừ một cuộc chiến tranh lớn giữa hai quốc gia, nhưng vẫn phải đề phòng cho nguy cơ ấy. (Mối đe dọa hạt nhân và giải pháp cho nó sẽ được bàn riêng ở cuối bài viết này)

Một cuộc chiến tổng lực Việt Trung sẽ mang đầy đủ nét điển hình của một cuộc chiến tranh quy ước và phi quy ước hiện đại, trên bộ, trên không và trên biển. Là quốc gia có năng lực quân sự mạnh hơn tuyệt đối, tuy nhiên Trung Quốc không thể dốc hết lực lượng tiến đánh Việt nam. Nó buộc phải duy trì lực lượng quân sự phòng thủ ở vùng giáp giới Ấn độ, Nhật Bản và thậm chí là cả với Nga. Nó cũng buộc phải duy trì một lực lượng quân sự lớn để đảm bảo tình hình trong nước ổn định, bởi mối đe dọa ly khai tại Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương là nguy cơ thường trực. Khi Trung Quốc sa lầy vào một cuộc chiến tranh, nguy cơ tan rã của nó sẽ lớn dần theo thời gian, đặc biệt nếu nó gặp bất lợi chiến trường.

Trung Quốc chắc chắn sẽ áp dụng lối tiến công phủ đầu ồ ạt bằng tên lửa định vị vệ tinh nhằm tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam và gây hỗn loạn tại lãnh thổ đối phương. Tất cả các căn cứ hải quân và không quân trải dài từ Móng Cái đến Cà Mau đều sẽ nằm trong tầm tiến công của tên lửa Trung Quốc. Tuy nhiên hiệu năng của nó sẽ giảm dần khi xuống phía Nam. Trong 3 năm tới, các căn cứ quân sự của Trung Quốc tại Trường Sa vẫn chưa được củng cố đủ để làm các bàn đạp tấn công Việt Nam ở khu vực phía Nam, do đó, miền Nam Việt Nam sẽ vẫn là một hậu phương khá an toàn cho một cuộc chiến tổng lực với Trung Quốc. Máy bay sau đó sẽ được sử dụng ồ ạt để oanh tạc và bắn phá. Mỹ đánh bom tan hoang Iraq một tháng trước khi xua quân tấn công, tiềm lực Trung Quốc hiện nay đủ để quốc gia này oanh tạc miền Bắc Việt Nam trong không dưới 15 ngày. Kết thúc giai đoạn tấn công phủ đầu, bộ binh cơ giới Trung Quốc sẽ tấn công ồ ạt ở biên giới phía Bắc theo các mũi tấn công gần giống cuộc chiến năm 1979.

Ở miền Trung và miền Nam, Trung Quốc chắc chắn sẽ sử dụng lực lượng tình báo để tiến hành cuộc chiến phá hoại gây hoảng loạn bằng số đặc tình Trung Nam Hải cài cắm rộng khắp Việt nam, qua các dự án kinh tế đưa lao động Trung Quốc vào ồ ạt tại Tây Nguyên, Vũng Áng và miền Nam. Trung Quốc chắc chắn sẽ nghiên cứu khả năng đổ bộ bằng hải quân vào khu vực Thanh Hóa và Vũng Áng, với lực lượng xuất phát từ căn cứ Tam Á tại đảo Hải Nam, nhằm cắt đôi lãnh thổ Việt nam tại phần hẹp nhất, khiến miền Bắc bị cắt rời khỏi hậu phương của nó.

Với lực lượng tăng thiết giáp và bộ binh cơ giới hùng hậu, sức tiến công của Trung Quốc ở biên giới phía bắc sẽ là rất mạnh. Hệ thống hạ tầng giao thông của Việt Nam trong những năm qua phát triển rất nhanh, đặc biệt là các tuyến đường cao tốc nối với Trung Quốc ở Lạng Sơn, Lào Cai và nhiều cửa ngõ biên giới sẽ khiến xe tăng Trung Quốc có khả năng có mặt ở Hà Nội sau ít giờ tham chiến. Lực lượng đặc biệt sơn cước của Trung Quốc sẽ được sử dụng để đảm bảo an toàn cho các đầu cầu tiến công của bộ binh cơ giới Trung Quốc, pháo binh và máy bay sẽ được sử dụng để thực hiện các đòn oanh tạc hủy diệt vào các cụm quân mà Trung Quốc cô lập hoặc bao vây được trước khi tiến hành trận đánh chính ở Hà Nội. Trung Quốc có thể tung ngay tức khắc khoảng 600 nghìn quân vào các mũi tiến công phía Bắc. Khoảng 400 nghìn quân sẽ được sử dụng để dàn trận đánh tại các mặt trận kéo dài 13 tỉnh giáp giới, mũi tấn công thọc sâu xuống đồng bằng sông Hồng mà mục tiêu chính là Hà Nội sẽ gồm ít nhất 2000 xe tăng, 3000 xe thiết giáp và xe cơ giới và trên dưới 2000 pháo lớn có cỡ nòng trên 57 ly. Tối thiểu 1000 máy bay, gồm tiêm kích, oach tạc cơ và trực thăng tấn công sẽ được huy động để đảm bảo cái ô tấn công cho mũi tấn công thọc sâu này.

Từ căn cứ Tam Á và đảo Hải Nam, sau khi đặc tình Trung Quốc phá hoại trên diện rộng các cơ sở thông tin và mạng lưới giao thông tại miền Trung, không quân và Hải quân Trung Quốc sẽ tiến đánh rất mạnh các căn cứ không hải của Việt Nam, đặc biệt là vịnh Cam Ranh. Máy bay Trung Quốc xuất phát từ Hoàng Sa và Hải Nam sẽ thực hiện các đòn tấn công hủy diệt với căn cứ này sau các đòn đánh phủ đầu bằng tên lửa hành trình. Chắc chắn Cam Ranh sẽ bị hủy diệt vì năng lực phòng không hiện nay của Việt Nam không đủ để tự vệ cho một mục tiêu có tọa độ cố định nằm trong phạm vi tấn công 500 km tính từ các căn cứ quân sự Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc sau đó sẽ huy động ít nhất hai trong số ba hạm đội của nước này cho cuộc chiến đổ bộ tại Thanh Hóa hoặc có thể là Vũng Áng tại miền Trung (Có khoảng cách gần như nhau tính từ các căn cứ tại Hải Nam)

Các mũi tấn công đổ bộ của Trung Quốc xuất phát từ Hải Nam:


Tối thiểu 200 chiến hạm và 1000 tàu thuyền các loại (gồm tàu đổ bộ quân sự và các tàu hỗ trợ hậu cần) sẽ được Trung Quốc huy động cho cánh quân đổ bộ này. Lực lượng đổ bộ dự tính khoảng 30 nghìn quân, đủ để cài một chốt chặn cắt đôi lãnh thổ Việt Nam và đánh vu hồi Hà Nội từ phía Nam.

Nếu tất cả các chiến lược của Trung Quốc được thực hiện thành công, Việt Nam có thể sẽ mất Hà Nội và toàn bộ miền Bắc. Đó là kế hoạch của người Tàu. Còn người Việt Nam có thể làm gì để chặn nguy cơ ấy?

Quân đội Việt Nam hiện có trên 300 nghìn lính thuộc lục quân. Không quân có trên dưới 300 máy bay các loại, chủ yếu là tiêm kích đời cũ mig21, tiêm kích bom su22 và khoảng 40 máy bay tiêm kích đa năng khá hiện đại su27, su30 và một số trực thăng chiến đấu. Việt nam không có oanh tạc cơ hạng nặng và không có máy bay cảnh báo sớm trên không. Việc cảnh giới bầu trời và các đòn tấn công phủ đầu chủ yếu dựa vào các trạm rada mặt đất mà ngày nay đã lạc hậu khá nhiều. Hải quân Việt Nam hiện có khoảng 100 chiến hạm các loại, chủ yếu hoạt động ven bờ, trong đó chủ lực là 10 hạm tầu tên lửa tấn công lớp tarantus, monlya, hai khinh hạm Gerparc và 4 tàu ngầm lớp Kilo mới được bàn giao. Lục quân Việt nam có trên 1000 xe tăng đời cũ, khoảng 3000 thiết giáp và xe cơ giới và khoảng 7000 pháo lớn, lực lượng tên lửa bờ biển có một số tổ hợp yakhon hiện đại nhưng số lượng rất ít. Lực lượng phòng không, ngoài hai tổ hợp P300MU, chủ yếu vẫn dựa vào các giàn tên lửa Sam3 có từ thời chiến tranh Việt Nam. Tổng quân số trong biên chế của Việt nam vào khoảng 450 nghìn quân. Bên cạnh đó còn khoảng 500 nghìn thuộc lực lượng an ninh và bán vũ trang có thể được huy động cho cuộc chiến chống phá hoại tại hậu phương. Trong điều kiện chiến tranh tổng lực, Việt Nam có thể tổng động viên để có một đạo quân dự bị vào khoảng 2 triệu người trong vòng 3 tháng. Nếu chiến tranh kéo dài và cần đánh tất tay, Việt Nam có thể có một lực lượng dự trữ không dưới 15 triệu người cho cuộc chiến phòng thủ chống xâm lược.

Năng lực quốc phòng Việt Nam hiện tại rất hạn chế. Các nhà máy quốc phòng Việt Nam hiện chỉ đủ khả năng sản xuất súng bộ binh, đạn các loại (bao gồm đạn pháo lớn) và đóng một số tàu chiến cỡ nhỏ (máy và vũ khí trang bị theo tàu vẫn phải nhập khẩu). Nói chung năng lực quân sự và quốc phòng tổng hợp của Việt Nam, trong tình huống không có nguồn hỗ trợ vũ khí từ bên ngoài, chỉ đủ cho một cuộc chiến tiêu hao du kích.

Chiến lược chính của Việt Nam trước các đòn oanh tạc bằng tên lửa và không quân của Trung quốc chỉ có thể là phân tán và ẩn núp. Nếu có kế hoạch phân tán tốt, lục quân Việt Nam có khả năng bảo tồn ít nhất 80% lực lượng và trang bị trước các đòn đánh phủ đầu. Dù diện tích rừng phía bắc đã bị phá hoại hầu như triệt để, nhưng địa hình vùng giáp giới Trung quốc vẫn rất hiểm hóc, có lợi cho phân tán và ẩn náu. Bên cạnh đó, thời tiết miền Bắc Việt Nam khác với vùng sa mạc khô nóng ở Iraq, rất không thuận lợi cho hoạt động kéo dài của không quân và tính chính xác của các loại vũ khí định vị do thường xuyên có mưa lớn, mây mù và nhiều cơn bão lớn. Trong trường hợp Trung Quốc đột kích ồ ạt, lục quân Việt Nam cần thiết lập vòng đại phòng thủ chính nằm vắt qua Sơn La, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên và Quảng Ninh. Trong lúc đó, cần tổ chức các mũi đột kích vu hồi vào các đường tiến quân của Trung Quốc tại các tỉnh giáp giới Cao bằng, Lạng sơn, Lai Châu và Hà Giang, nhằm chặn đường và gây tổn thất nặng cho bộ binh cơ giới Trung Quốc.



Địa hình nhiều rừng núi giúp Việt Nam triển khai lợi thế của các trận chiến phục kích mà các vũ khí chống tăng cầm tay có thể phát huy tác dụng. Việt Nam có thể sử dụng 200 nghìn bộ binh chính quy làm nòng cốt cho các vành đai phòng thủ. Các mũi tấn công đột kích trang bị nhẹ có thể huy động 3 - 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập với quân số khoảng 50 nghìn người. Để chống lại đà tiến công của các mũi đột kích bằng xe tăng và cơ giới, hệ thống cầu và đường bộ trên các hướng tiến quân của Trung Quốc sẽ được phá hoại hàng loạt. Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra các nút chặn chôn cứng xe tăng và bộ binh cơ giới của Trung Quốc ở các tuyến đường hiểm trở ven núi. Trong tình huống đó, một số tỉnh phía Bắc như Cao Bằng, Lai Châu, Hà Giang và Lạng Sơn có thể thất thủ, nhưng Trung Quốc sẽ bị kéo vào cuộc chiến sa lầy ở vành đai phòng thủ tiếp sau, và sẽ phải đối mặt với các mũi tấn công đột kích kéo dài trên những địa hình rừng núi mới chiếm đóng. Cuộc chiến sẽ nhanh chóng biến thành một cuộc chiến vỗ mặt thay vì các đòn tấn công thọc sâu chia cắt, và trở thành một cuộc chiến sa lầy đẫm máu. Trung Quốc có lợi thế lớn về quân số chính quy và năng lực hậu cần. Ngược lại, ở phương diện phòng thủ, Việt Nam có lợi thế vượt trội về lực lượng có thể sử dụng cho các hoạt động tấn công du kích, và lực lượng chủ lực Việt nam sẽ thường xuyên được tiếp máu vì chiến đấu ngay tại hậu phương. Việt Nam không có lợi thế về các phương tiện cơ giới, nhưng số pháo lớn trên 7000 khẩu thừa đủ để hỗ trợ cho các mặt trận phòng thủ. Ở đây phải xét đến đòn tiến công tâm lý: Lính Trung Quốc, vốn là sản phẩm của chính sách con một trong suốt 50 năm, một đứa trẻ Trung Quốc được 6 người lớn nuôi dưỡng (2 ông bà nội, có một con trai; hai ông bà ngoại có một con gái; thế hệ thứ hai kết hợp để đẻ ra duy nhất một đứa thuộc thế hệ thứ ba), số lính này không có khả năng để chịu đựng một cuộc chiến sa lầy kéo dài 6 tháng. Duy trì được cuộc chiến kéo dài, vốn là một năng lực đặc thù của người Việt Nam. Có thể nói đòn tấn công lục quân của Trung Quốc hòng tràn ngập miền Bắc chắc chắn sẽ bị chặn lại.

Không quân Việt nam không thể tiến hành một cuộc chiến vỗ mặt với không quân Trung quốc. Nó phải lẩn tránh nhằm bảo tồn lực lượng sau các đòn oanh tạc phủ đầu. Để thành công cho cuộc chiến bảo tồn này, Việt Nam bằng mọi giá phải tiêu diệt được lực lượng tình báo và quân báo Trung quốc hoạt động sâu trong hậu phương. Đây là một bài toán nan giải nếu xét theo bản đồ xâm nhập tràn ngập của công nhân và thương nhân Trung Quốc trên khắp lãnh thổ. Tuy nhiên Việt Nam có một bộ máy khá hữu hiệu về hệ thống công an khu vực và tự vệ địa phương. Lực lượng này sẽ phát huy được năng lực của nó tại hậu phương khi bước vào thời chiến. Chiến thuật chính của không quân Việt Nam, là đánh tỉa quấy rối vào lực lượng oanh tạc cơ trung quốc, tránh các đòn đánh vỗ mặt với tiêm kích đối phương. Trong lúc đó toàn bộ oanh tạc cơ mang tên lửa chống hạm và tiêm kích đánh biển sẽ được ưu tiên giành cho hạm đội đổ bộ Trung Quốc từ hướng biển.

Hơn 100 máy bay các loại có thể được huy động cho cuộc chiến này. Để phòng thủ miền Trung, từ Thanh Hóa hất vào Đà Nẵng, Việt Nam có thể triển khai một quân đoàn, vừa nhằm làm lực lượng phòng thủ chống đổ bộ, vừa làm dự bị chiến lược cho mặt trận phòng thủ miền Bắc. Việt Nam cũng cần huy động tối thiểu năm triệu người vào lực lượng tự vệ quốc phòng để chống chiến tranh phá hoại và hỗ trợ cho các lực lượng chính quy. Với số dân trên 40 triệu người tại Miền Bắc, có đủ số người để thiết lập vành đai phongf thủ ở hậu phương. Không quân và các tàu tên lửa tấn công nhanh của Việt Nam có thể được huy động để đánh vào chặng đường tiến công kéo dài trên 500 km của hạm đội đổ bộ Trung Quốc từ Hải Nam. Với các đòn đột kích bất ngờ, liên tục từ các căn cứ không quân dã chiến trong đất liền và các vịnh nhỏ kín đáo giáp biển và các đảo ven bờ, hải quân và không quân Việt Nam có thể đánh quỵ hạm đội đổ bộ của Trung Quốc bằng các mũi đột kích liên miên với số lượng nhỏ máy bay và tàu tham chiến. Lực lượng tàu ngầm có thể được huy động để răn đe chiến lược với các tàu chiến có giá trị cao của hải quân trung hoa. Gần như có thể chắc chắn rằng, việc một hạm đội đổ bộ phơi mình trên chặng đường hành quân 500 km trống trải giữa biển, nằm gọn trong tầm oanh tạc của không quân Việt nam và tầm hoạt động của các tàu nhỏ hải quân, sẽ bị tiêu diệt phần lớn sinh lực trước khi nó đến được mục tiêu (Không quân trung Quốc không đủ năng lực để che ô bảo vệ 24/24 trên đầu hạm đội, và kể cả có hoạt động liên tục, cũng không thể chặn hết các đòn tiến công của phi cơ đối phương khi chặng đường tiến công từ căn cứ ven bờ đến mục tiêu không quá 30 phút bay).  Đón sẵn hạm đội đã bị tổn thất nặng ấy là pháo lớn, tên lửa bờ và các trận địa phòng thủ bờ biển. Nếu Trung Quốc đủ năng lực như liên quân Mỹ Anh để đổ bộ 155 nghìn quân lên Normandy trong đợt đầu và 1,33 triệu quân lên trong đợt kế tiếp (Với 12 nghìn máy bay hỗ trợ, 6900 chiến hạm và 4500 tàu đổ bộ, không quân oanh tạc 14000 nghìn phi vụ và khoảng cách hành quân chỉ ít giờ do khoảng cách eo biển Pháp - Anh), có lẽ nó sẽ đủ khả năng đổ bộ lên miền Trung Việt Nam, còn với năng lực tất tay của không quân và hải quân Trung Quốc hiện nay, đó vẫn là một giấc mơ còn rất xa vời.

Phản ứng của thế giới về cuộc chiến Việt Trung và các lợi thế Việt nam có thể tận dụng

Phương Tây và thế giới sẽ không bất ngờ, vì năng lực vệ tinh định vị hiện nay đủ khả năng giám sát mọi hoạt động tập kết và chuyển quân của Trung Quốc đến từng thời điểm. Mỹ chắc chắn sẽ gửi ít nhất 2 hạm đội tàu sân bay đến Biển Đông, chắc chắn không phải là để tham chiến mà là để giám sát với cái cớ đảm bảo an ninh hàng hải. Nhật sẽ không ngồi im và cũng sẽ gửi hạm đội của mình đến biển đông. Giống Mỹ, người Nhật chắc chắn không tham chiến. Sự có mặt của hạm đội Nhật Mỹ sẽ có tác dụng kìm chế và ngăn chặn hoạt động của không quân và hải quân Trung Quốc tại Biển Đông và đảm bảo cho dòng hàng hóa viện trợ của các nước đổ vào Việt nam ở phía Nam, bao gồm hàng hóa quốc phòng.



Hơn 20 năm qua, người Nhật trung thực giúp đỡ Việt nam để Việt nam mạnh lên, cả về kinh tế và năng lực quốc phòng. Viện trợ ODA của Nhật đổ vào Việt nam đến nay không dưới 30 tỷ USD. (Riêng năm 2015, Nhật Bản cam kết viện trợ 3,1 tỷ USD). Một cuộc chiến Việt Trung, người Nhật chắc chắn sẽ giành một ngân khoản không dưới 10 tỷ USD  giúp Việt nam phòng thủ, bởi giúp Việt Nam, cũng chính là đảm bảo cho tương lai nước Nhật.

Do vướng mắc trong quá khứ và sự khác biệt chính trị, dòng viện trợ từ Mỹ vào Việt Nam nhiều khả năng sẽ chảy vòng vào Nhật Bản, rồi từ đó rots vào Việt Nam. Đây sẽ là một sự hậu thuẫn có ý nghĩa cho cuộc chiến tự vệ kéo dài của người Việt.

Ấn độ, với mối thâm thù kéo dài nhiều thập niên với Trung Quốc chắc chắn cũng hướng về phía Đông một cách thiết thực. Các dòng vũ khí Ấn độ, dù được viện trợ cho không hay thuê mua, đều sẽ giúp củng cố mạnh năng lực quốc phòng của Việt nam ở giai đoạn đầu cuộc chiến do tính tương đồng về khí tài.

Sự kiểm soát gần như tuyệt đối của Mỹ, Nhật, Ấn đối với Ấn Độ Dương, eo biển Mallacca và thậm chí là Biển Đông sẽ cung cấp một cái ô cho không quân và hải quân Việt nam ở phía Nam, khi hạm đội Trung Quốc không thể triển khai mạnh trong điều kiện hạm đội Nhật Mỹ hiện diện trong khu vực.

Bài toán chính với Việt Nam là đánh tiêu diệt các căn cứ không quân và hải quân Trung Quốc tại Hoàng Sa và các đảo bồi đắp tại Trường Sa trong giai đoạn hai của cuộc chiến. Các căn cứ này sẽ mang lại lợi thế lớn cho Trung quốc trong giai đoạn 1 của cuộc chiến khi làm cơ sở xuất phát cho các đòn đánh phủ đầu. Tuy nhiên do đây là những mục tiêu cố định nằm giữa biển, nằm trong khoảng cách 30 phút bay từ các căn cứ không quân mặt đất của Việt nam. Bằng việc triển khai máy bay oanh tạc bay thấp trong đêm, đột kích liên tục kết hợp các đòn đánh cảm từ của lực lượng đặc công hải quân, Việt nam có đủ khả năng xóa sổ và vô hiệu hóa các căn cứ này, và loại chúng khỏi vòng chiến đấu trong các giai đoạn chiến đấu kéo dài. Thậm chí ngay cả khi Trung Quốc cố gắng vượt cả nghìn cây số (với tổn hại nặng khi bị không quân Việt Nam đột kích vào đội hình kéo dài trên biển), để khôi phục và tiếp viện cho các căn cứ này, Việt Nam vẫn có khả năng mở lại các đòn đột kích liên miên để xóa sổ chúng khỏi vai trò quân sự. Trong tình huống đó, Việt Nam có đủ lợi thế để phong tỏa tàu dầu và các tàu vận tải Trung Quốc qua lại eo biển mallacca. Cuộc chiến kéo dài, Trung Quốc sẽ hết dầu để đổ cho các phương tiện chiến tranh cơ giới.

Phần còn lại của thế giới về cơ bản sẽ ngồi im và nghe ngóng. Châu Phi, Nam Mỹ sẽ ngồi xem phim. Asean sẽ phản đối bằng mồm và ngồi im quan sát. Nước Nga sẽ nghe ngóng và ngồi im. Châu Âu sẽ phản đối chiến tranh và tiến hành cấm vận Trung Quốc. Việt Nam cũng chỉ cần thế để tiến hành một cuộc chiến tự vệ kéo dài.

Kết cục của cuộc chiến

Miền Bắc Việt Nam sẽ phải gánh chịu tổn hại nặng nề. Hà Nội, Hải Phòng và một loạt đô thị lớn sẽ biến thành gạch vụn. Hầu hết các nhà máy điện, năng lượng, các đập thủy điện và các cơ sở kinh tế chính ở miền Bắc sẽ bị hủy diệt. Tổn thất nhân mạng ước tính từ 3 - 5 tr người. Tổng thiệt hại có thể lên tới 100 tỷ USD và nhiều hơn.

Trung Quốc sẽ tổn thất ở Việt nam ít nhất 200 nghìn quân, số bị thương có thể lên tới 1 tr lính nếu cuộc chiến kéo dài. Hạm đội Trung Quốc sẽ tổn thất khoảng 1/3 do phải chiến đấu ở vùng chiến trường thuộc lợi thế đối phương. Không quân Trung Quốc cũng sẽ mất từ 500 - 1000 máy bay các loại. Tuy nhiên, những gì diễn ra sau đó trong lòng Trung Hoa mới là cơn ác mộng.

Việt nam sẽ bị tổn hại nặng nề, nhưng nó sẽ thoát khỏi cái bóng Trung Quốc một lần và mãi mãi. Quỹ đạo Việt Nam sẽ gắn với phương tây và không thể quay đầu. Người Việt sẽ mất ít nhất 1 thế hệ để xây dựng lại những gì đã mất nhưng tương lai sẽ là thịnh vượng và tự do.

Ngược lại, cuộc chiến sa lầy nặng tại Việt nam, dòng thương mại bị phong tỏa và cuộc chiến cấm vận của phương Tây sau chiến tranh sẽ khiến Trung Quốc sụp đổ. Khi kinh tế đói kém và hoảng loạn lan tràn, sự chia tách ly khai của Trung Quốc là không thể tránh khỏi. Đài Loan sẽ tuyên bố độc lập khi Trung Quốc sa lầy và không còn rảnh tay bóp cổ Đài Loan. Người Tân Cương cũng sẽ tận dụng sự rối ren. Tây Tạng cũng sẽ là một lò lửa mới. Ấn độ sẽ nghe ngóng để đoạt lại vùng biên giới giáp hymalaya. Kịch bản tồi tệ nhất là Trung Quốc có thể bị tách làm ba sau các cuộc nội chiến kéo dài. Trung Quốc sẽ mất 50 năm và có thể nhiều hơn để vãn hồi những gì đã mất. Nhưng giấc mộng Trung Hoa thì vĩnh viễn sụp đổ.

Do không thể đối mặt với một cuộc chiến kéo dài, cả Trung Quốc và Việt Nam rồi sẽ phải ngồi vào đàm phán sau 6 tháng chiến tranh. Cuộc chiến sẽ để lại nghi kỵ kéo dài và hậu quả thảm khốc cho cả hai bên tham chiến.

Do tính khốc liệt và mức tổn hại kinh khủng của nó, một cuộc chiến tổng lực Việt Trung là cuộc chiến cả hai phía cùng thua. Do đó, đây là một kịch bản có khả năng thấp nhất trong xung đột hai nước. Thay vì thế, cả hai phía sẽ đối mặt với một cuộc chiến có khả năng lớn hơn nhiều: Cuộc xung đột cục bộ tại khu vực Hoàng Sa và Trường Sa trên biển đông.

Do cuộc chiến cục bộ tại Biển Đông sẽ gắn rất chặt chẽ với chiến lược phát triển quốc phòng của Việt nam trong tương lai, anh Lãng sẽ bàn riêng về cuộc chiến này và các giải pháp phòng thủ chiến lược của Việt nam trong bài viết ở phần kế tiếp.

Chúng ta quay lại với một nguy cơ lớn:

MỐI ĐE DỌA HẠT NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

Trung Quốc hiện có không dưới 500 đơn vị vũ khí hạt nhân, Việt Nam không có.

Trung Quốc hiện có không dưới 200 máy bay có thể oach tạc bằng vũ khí hạt nhân, Việt nam không.

Trung Quốc hiện có 2000 tên lửa đạn đạo, hành trình có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, Việt Nam không.

Điều gì sẽ diễn ra nếu Trung Quốc giã vào tất cả các thành phố lớn của Việt Nam mỗi nơi một đầu đạn nhiệt hạch? Tất nhiên, đó sẽ là mùa đông hạt nhân.

Việt Nam có giải pháp nào khi không có gì trong tay để trả đũa và tự vệ.

Lời giải đến với chúng ta từ lịch sử.

Năm 1952, liên quân Trung Quốc choảng nhau chí tử với liên quân do Mỹ dẫn đầu ở Triều Tiên. Trung Quốc chết trận hơn 1 tr người, tổn thất của Mỹ và đồng minh là hơn 50 nghìn lính. Cuộc chiến đã dẫn đến kết quả tách đôi Triều Tiên và đẩy Mỹ và Trung Quốc vào vị thế của những kẻ thù cốt tử. Thực trạng ấy giữ nguyên cho đến năm 1969, khi đó Mỹ vẫn là kẻ tử thù của Trung Quốc và nhiều nước cộng sản.

Cũng trong năm 1969, Mao Trạch Đông xua lính lấn chiếm lãnh thổ Liên Xô. Lúc này đang ở đỉnh cao về quân sự, người Nga nhanh chóng đáp trả và hất cẳng toàn bộ bộ binh Trung Quốc về bên kia biên giới. Nga sau đó tập hợp một đạo quân ở vùng viễn đông lên tới 400 nghìn lính chính quy và trên 12000 xe tăng, khoảng 7 nghìn máy bay các loại. Đạo quân này được đánh giá là quân đội PLA hiện nay vẫn không phải là đối thủ. Nhưng nguy cơ hủy diệt của Trung Quốc không nằm ở đạo quân này. Liên Xô, quốc gia lúc đó có hơn 20 nghìn đầu đạn hạt nhân, đã lên kế hoạch về một cuộc tấn công hạt nhân ồ ạt vào lãnh thổ Trung Quốc bằng tên lửa tầm trung. Vào năm 1969, Trung Quốc có trong tay không nhiều hơn vài chục đơn vị vũ khí hạt nhân (vụ thử đầu tiên của Trung Quốc là vào năm 1964) với phương tiện mang phóng rất hạn chế, và người Nga đánh giá thiệt hại do khả năng trả đũa của Trung Quốc nằm trong phạm vi kiểm soát. Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái A. A. Grecho và trợ lý Bộ trưởng, Nguyên soái V. I. Chuikov đã cho soạn thảo một kế hoạch tấn công hạt nhân ồ ạt tất cả các thành phố và căn cứ quân sự chính của Trung Quốc. Liên Xô có thừa đầu đạn cho kế hoạch của mình, đối phương cũng gần như không có gì trong tay, nhưng Liên Xô đã bị chặn lại, không phải bởi Trung Quốc mà vì nước Mỹ.

Kể từ khi vũ khí hạt nhân ra đời, nó chỉ được sử dụng duy nhất một lần trong chiến tranh thế giới lần 2. Thứ vũ khí này là phương tiện hủy diệt kinh khủng nhất mà loài người sáng tạo ra. Nước Mỹ đã sử dụng nó trong bối cảnh cả thế giới không ai ngoài Mỹ có. Năm 1969 năng lực răn đe hạt nhân Xô Mỹ là khá cân bằng, cả hai phía đều có thể hủy diệt và gây tổn hại nặng cho nhau. Trung Quốc mới góp mặt trong cuộc chơi hạt nhân và có năng lực không hơn gì Kim Jong Un của Bắc Triều Tiên hiện nay là mấy. Liên Xô, với lãnh thổ 17 tr km2, vùng lãnh thổ trọng yếu phía Tây nằm ngoài năng lực tấn công của Trung Quốc hầu như không đếm xỉa đến vài chục đầu đạn hạt nhân của Mao Trạch Đông. Tuy nhiên trạng thái cân bằng hạt nhân thế giới lúc đó được thiết lập trên quy tắc: Không ai được dùng vũ khí hạt nhân trước. Khi Brezhnev thăm dò ý kiến của Mỹ về khả năng tấn công hạt nhân của Liên Xô đối với Trung Quốc, nước Mỹ đã đưa ra một phản ứng cực mạnh và tức thời: Mỹ lên kế hoạch và thông báo sẽ tấn công 130 thành phố của Liên Xô bằng vũ khí hạt nhân nếu phát hiện tên lửa tầm trung mang đầu đạn hạt nhân của Liên Xô rời bệ phóng.

Nhận được tin này qua đường tình báo và ngoại giao, Tổng bí thư ĐCS Liên Xô Brezhev thốt lên đầy cay đắng: "Bọn khốn kiếp đó (Mỹ) đã bán đứng chúng ta". Kế hoạch tấn công hạt nhân của Liên Xô nhằm hủy diệt Trung Quốc được xếp vào ngăn kéo.

Mỹ yêu Trung Quốc chăng? Chuyện cổ tích thời đại vì năm 1969 Mỹ Trung còn gằm ghè sau cuộc chiến chí tử tại Triều Tiên. Nước Mỹ của tự do càng không thể ưa nổi Mao của đại cách mạng văn hóa và đại nhảy vọt. Tuy nhiên, nước Mỹ đã đe dọa tấn công Liên Xô vì chính an toàn nước Mỹ.

Nếu một quốc gia có vũ khí hạt nhân tùy ý phóng tên lửa hủy diệt một quốc gia khác ngày hôm nay, không có gì đảm bảo ngày mai tên lửa đó không quay đầu hươngs về nước Mỹ. Với tư cách là một đại cường, Mỹ chặn nguy cơ ấy lại vì chính sự sinh tồn của Mỹ chứ không phải vì Trung Quốc.

Năm 2015, trong phương án tấn công tối mật của Mỹ về một cuộc đại chiến thế giới lần 3, hơn 1000 thành phố, căn cứ quân sự và các mục tiêu trọng yếu của Trung quốc đã nằm sẵn trong một phương án tấn công hủy diệt bằng vũ khí hạt nhân của Mỹ (Wiki leak rồi sẽ tiết lộ phương án này). Do đó, người Việt Nam có thể yên tâm, sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công chỉ nằm trong giấc mơ đêm trước tận thế của người Trung Quốc.

(Còn tiếp)

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2015

Nguy cơ chiến tranh Việt Trung và chiến lược phòng vệ của Việt Nam (P1)

Series này sẽ có ít nhất 8 phần, do tính dài kỳ của nó nên anh Lãng không dự kiến thời gian kết thúc. Nó có thể được bổ sung trong tương lai khi xuất hiện thêm các nhân tố mới trong cục diện Châu Á - Thái Bình Dương. Tác giả giữ bản quyền về các bài viết này, mọi hành động sao chép và phổ biến vì mục đích phi lợi nhuận đều được cho phép với điều kiện trích dẫn nguồn và link tới bài viết gốc.

Phần 1 - Đi tìm nguyên nhân từ nguồn gốc lịch sử

Ngày 05/09/2008, mạng Sina.com, một website trong lãnh thổ Trung Hoa, loan tải một bản kế hoạch mang tên: "Kế hoạch A - càn quét Việt Nam trong 31 ngày". Bản kế hoạch này nhanh chóng được hàng loạt các trang web Trung Quốc đăng tải lại gồm cả tờ South China Morning Post và trở thành một trong những chủ đề gây xôn xao dư luận trong một thời gian dài. Kế hoạch A, không nổi tiếng vì các kiến giải chiến dịch, chiến lược quân sự thâm sâu, nhưng lại khét tiếng vì tham vọng mà nó đặt ra: Đánh chiếm toàn bộ Việt Nam trong 31 ngày, điều mà 15 cuộc xâm lăng của các triều đại Trung Quốc trong suốt nhiều thế kỷ chưa bao giờ làm được, hoặc ngay cả các đạo quân hùng mạnh nhất thế kỷ 20, gồm lực lượng viễn chinh của Pháp, liên quân Hoa Kỳ và cả đạo quân 600 nghìn người của Đặng Tiểu Bình năm 1979 chưa bao giờ dám mơ tưởng tới. Xét về mặt quân sự, đây là một kế hoạch có tính ảo tưởng, nhưng nó phản ánh một xu hướng và khao khát bắt rễ thâm sâu trong chính quyền và xã hội Trung Hoa: Tham vọng nuốt sống Việt Nam và kế đó là các quốc gia Đông Nam Á lân cận. Không có gì ngạc nhiên, nếu trong một bối cảnh ảo tưởng đẹp đẽ của giấc mộng Trung Hoa, nếu kế hoạch A thành công, chắc chắn sẽ có các kế hoạch B,C,D ... với mục tiêu là Lào, Campuchia, Thái Lan, Mã lai ... và rộng hơn là toàn khu vực.

Tháng 8/2011, trang China News liệt kê về 6 cuộc chiến tranh Trung Quốc sẽ phát động trong 50 năm tới. Bao gồm cuộc chiến thống nhất Đài Loan (2020 - 2025); Cuộc chiến thu hồi các đảo tại Biển Đông (2025 - 2030); Cuộc chiến thu hồi Nam Tây Tạng,  đánh bại Ấn Độ (2035 - 2040); Cuộc chiến thu hồi quần đảo Điếu Ngư (sekaku) và quần đảo Lưu Cầu (Okinawa), đánh bại Nhật Bản (2040 - 2045); Cuộc chiến thống nhất Ngoại Mông, xâm lược và xóa tên Cộng hòa nhân dân Mông Cổ (2045 - 2050); Cuộc chiến thu hồi vùng Viễn Đông, đánh bại nước Nga (2055 - 2060). Bản kế hoạch này gây một tiếng vang còn lớn hơn kế hoạch A vì tham vọng không tưởng của nó. Theo đó tất cả các quốc gia láng giềng hiện hữu của Trung Quốc đều sẽ nằm trong phạm vi mục tiêu của một cuộc chiến trong tương lai mà Trung Quốc sẽ đánh bại tất cả.

Một cuộc trưng cầu trên trang báo mạng Hoàn Cầu, một trang tin trực thuộc Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 2008 cho thấy có 80% người sử dụng mạng Trung Quốc ủng hộ "hành động quân sự cứng rắn" với Việt Nam.

Điều gì đang diễn ra trong lòng xã hội Trung Hoa, vì đâu mà cái ý tưởng gây chiến và xâm lược các nước khác lại có sức sống kinh khủng đến thế trong suy nghĩ của người dân và chính quyền đang cai trị đất nước này???

Bản đồ xâm lăng của đế chế Trung Hoa (Phần màu đen là một phần lãnh thổ gốc của Trung Quốc)



Trong lịch sử, lãnh thổ Trung Quốc (phần màu đen trên bản đồ) chỉ là một phần nhỏ so với Trung Hoa hiện đại. Vùng đất phát tích của Trung Quốc là vùng Hà Nam (Hình tam giác nhỏ màu đỏ trên bản đồ). Rất khó để phân tích rạch ròi về chủng tộc gốc của người Trung Quốc. Nhiều nghiên cứu nhân chủng học kết luận sắc dân Hoa Hạ (hay Hán Tộc - khái niệm có từ thời nhà Hán), là kết quả hỗn huyết từ các cuộc xâm lăng của người Mông Cổ phía bắc, hòa huyết với các sắc dân bản địa và hình thành chủng tộc Mongoloid. Sự lai giống trong quá trình xâm lăng diễn ra liên tục, cuối cùng hình thành một chủng người được gọi là Hoa Hạ, và được người Trung Quốc ngày nay thừa nhận là chủng tộc chính thống của Trung Quốc hiện đại. Có thể nói lịch sử hình thành của người Trung Quốc "chính thống" là kết quả của các cuộc xâm lăng, và được viết tiếp cũng bằng các cuộc xâm lăng. Người Trung Quốc liên tục bành trướng ra bốn phía, lần lượt sát nhập Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông và phần đất thuộc về Bách Việt. Luôn có ưu thế về số đông so với các dân tộc giáp giới, người Hoa Hạ luôn có cảm giác về một sự ưu việt, giống như quan điểm của Hitler sau này về một giống dân siêu đẳng so với các dân tộc xung quanh. Quan điểm này là một quan điểm bén rễ đến tận xương tủy trong suy nghĩ của người Trung Quốc suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà nhiều lần dân Hoa Hạ cảm thấy bị sỉ nhục chua cay. Lần đầu tiên là khi các đạo quân của Thành Cát Tư Hãn tràn ngập Trung Hoa và dựng lên nhà Nguyên, cai trị Trung Quốc từ năm 1271 - 1368. Lần thứ hai là dưới triều đại Mãn Thanh, một dân tộc du mục thiểu số phương Bắc, xâm lược toàn bộ Trung Hoa và duy trì cai trị trong 268 năm, từ 1644 - 1912. Cho đến nay, đây vẫn là những thời kỳ lịch sử được coi là sỉ nhục của người Hoa Hạ hay Hán tộc, được coi là thời kỳ mà người Hán phải nhận giặc làm cha. Chính điều đó hình thành nên những hiện tượng tâm lý phức tạp của người Trung Quốc hiện đại. Một mặt họ vẫn tự coi là một giống dân siêu đẳng, luôn có cảm giác ưu việt vì lợi thế số đông. Mặt khác cũng cái số đông ấy luôn mặc cảm tự ti, dù chôn sâu trong lòng, vì số đông vượt trội ấy vẫn phải khuất phục nhiều lần trước các sắc dân thiểu số và phải chấp nhận hai triều đại cai trị "Nhận giặc làm cha" như những triều đại chính thức trong lịch sử Trung Quốc. Mặc cảm đan xen giữa kiêu ngạo và tự ti ấy được tô đậm thêm với thời kỳ chiến tranh Nha phiến và cuối triều Thanh, khi các cường quốc phương Tây kéo nhau vào đặt tô giới trong lãnh thổ Trung Quốc, và được nhấn đậm bằng cuộc xâm lăng của người Nhật Bản từ năm 1937 - 1945. Một lần nữa, người Hoa Hạ bị khuất phục bởi một dân tộc ít người hơn rất nhiều lần. Chỉ nhờ vào cơ may lịch sử khi Nhật Bản bị liên quân Hoa Kỳ và Liên Xô đánh bại mà Trung Quốc giành lại được độc lập. Chính quá trình lịch sử hình thành phức tạp ấy đã tạo ra người Trung Quốc hiện đại ngày nay, họ luôn có khao khát dựa vào số đông để chứng minh tính ưu việt siêu đẳng của mình bằng cách tiếp tục xâm lấn các vùng lãnh thổ xung quanh. Khao khát chứng tỏ sức mạnh cơ bắp ấy được làm mạnh thêm bởi nỗi tự ti dai dẳng hình thành từ nỗi nhục nhiều lần phải "nhận giặc làm cha" trong lịch sử. Kết quả là cái máu xâm lược trong người Trung Quốc luôn vượt trội so với khao khát chung sống hòa bình, mạnh hơn bất cứ một dân tộc nào trên thế giới ngày nay. Mỗi khi có điều kiện mạnh lên, điều người Trung Quốc nghĩ tới đầu tiên là phải thể hiện đẳng cấp ưu việt số đông của mình bằng các hành vi xâm lấn. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe hoàn toàn có lý khi phát biểu trước lưỡng viện Hoa Kỳ, rằng người Trung Quốc có máu xâm lược "Thâm căn cố đế"

Từ những dữ liệu lịch sử và những tham vọng hung hăng trong các kế hoạch xâm lược được lan truyền phổ biến trên các website tiếng Trung hiện nay và một tỷ lệ luôn cao hơn 80% số lượng thanh niên Trung Quốc sử dụng mạng ủng hộ các hành vi quân sự chống lại các nước láng giềng, cho thấy đây không phải là những ý tưởng đơn lẻ, ngược lại, nó là một trào lưu tư duy thâm căn cố đế trong xã hội Trung Quốc. Đây là điều mà tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia giáp giới với Trung Quốc phải nhìn nhận một cách thấu đáo và KHÔNG ĐƯỢC PHÉP ẢO TƯỞNG VỀ DÒNG TƯ DUY CHỦ LƯU CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC VÀ CHÍNH QUYỀN TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI DÃ TÂM XÂM LƯỢC CŨNG NHƯ CÁC HÀNH VI CHIẾN TRANH. Mọi nhận định sai lầm hoặc coi nhẹ dòng tư duy chủ lưu này đều sẽ dẫn đến hậu quả rất đắt.

Phần 2 - Thực lực và khả năng Quân đội nhân dân Trung Hoa

Quay trở lại với Kế hoạch A - càn quét Việt Nam trong 31 ngày của mạng Sina.com. Khó có thể nói ai là tác giả của bản kế hoạch này. Nếu nói đó là một phương án phác thảo của một sỹ quan tham mưu có kiến thức nào đó của Trung Quốc thì sẽ là không chính xác, vì tính ngô nghê rất lớn của nó khi nhận định về thời gian và kết quả của các chiến dịch tấn công. Nó giống như việc vạch ra một trận chiến tranh mà một bên chỉ việc đấm còn bên kia thì không có ai hoặc là không chống cự. Chưa tính đến việc thiếu vắng hoàn toàn các phân tích về hậu cần, vốn là một phần thậm chí còn quan trọng hơn cả việc vạch ra các ý tưởng chiến dịch, chiến lược tấn công, cho thấy đây không thể là một sản phẩm của một quân nhân chuyên nghiệp. Tuy nhiên cũng rất khó kết luận vì có nhiều tướng tá Trung Quốc như thiếu tướng La Viện là một điển hình cho một quân nhân cấp tướng nhưng dường như không có kiến thức quân sự. Do đó cũng không có gì ngạc nhiên nếu kế hoạch này lại do một quân nhân mang hàm cấp tướng tương tự như tư lệnh của binh chủng "Hỏa lực mồm" La Viện của Trung Quốc vẽ ra. Dù vậy, bản kế hoạch A này cũng có một phần khá gây chú ý, đó là ý tưởng về các mũi tiến công chiến lược của Trung Quốc nếu tiến đánh tổng lực Việt Nam.

Bản đồ về các mũi tấn công theo Kế hoạch A - càn quét Việt Nam trong 31 ngày:
Ý tưởng xuyên suốt của Kế hoạch A, là tiến hành một cuộc tấn công phủ đầu ồ ạt bằng hàng nghìn tên lửa chiến thuật, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo vào các mục tiêu quân sự, kinh tế, chính trị của Việt Nam. Tiếp đó là sử dụng từ 1000 - 1500 phi cơ tấn công oanh tạc vào các mục tiêu quân sự trong giai đoạn 2, nhằm tiêu diệt năng lực đề kháng của quân đội Việt Nam. Trong giai đoạn sau cùng, bộ binh và lục quân, hải quân được sử dụng trong các chiến dịch tấn công tổng lực. Phần lớn các đạo quân giáp biên giới sẽ tiến công theo các đường tiến quân giống năm 1979, đạo quân quan trọng nhất, dưới sự yểm trợ của không quân và hải quân, sẽ đổ bộ tấn công khu vực Thanh Hóa, nhằm cắt rời lãnh thổ Việt Nam ở phần hẹp nhất, cô lập miền Bắc khỏi miền Trung và Miền Nam. Tổng lực lượng quân sự huy động cho kế hoạch A, ngoài lực lượng tên lửa chiến lược, chiến thuật, sẽ gồm khoảng 3500 máy bay, 1200 xe tăng và 3000 xe bọc thép, cùng với số quân huy động trực tiếp tham chiến khoảng 520 nghìn người. Dự kiến mục tiêu của kế hoạch là sẽ chiếm Hà Nội sau 16 ngày chiến tranh, và chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt nam sau ngày thứ 31.

Đây là một kế hoạch không tưởng khi xét về các mục tiêu chiến tranh. Nó giống như một bản phác thảo các tham vọng xâm lược hơn là một kế hoạch chiến tranh đúng nghĩa. Thực lực quân đội nhân dân Trung Hoa hiện nay rất mạnh, nhưng không đủ năng lực về hậu cần và yểm trợ để hỗ trợ cho một đạo quân nửa triệu người tác chiến trên một chiến trường kéo dài 2000 km với địa hình rất phức tạp. Đặc biệt và việc yểm trợ và đảm bảo hậu cần cho cánh quân thứ ba, được coi là cách quân quan trọng nhất đánh gãy xương sống Việt Nam khi đổ bộ vào Thanh Hóa. Trong điều kiện Việt Nam dù yếu thế hơn, nhưng các lực lượng không quân, hải quân và bộ binh phòng thủ mặt đất của nó hoàn toàn có khả năng đánh quỵ một hạm đội đổ bộ xuất phát từ Trung Quốc và kéo dãn đội hình hành quân 500 km trên biển trước khi đến được mục tiêu. Bên cạnh đó, số lượng tên lửa, oanh tạc cơ và máy bay được đưa vào sử dụng trong kế hoạch có vẻ gây ấn tượng, nhưng dường như vượt quá nhiều lần năng lực không quân thực sự của Trung Quốc, khi chỉ có khoảng trên 500 máy bay là thuộc các thế hệ tương đối hiện đại có thể đảm trách các kế hoạch tấn công sâu vào lãnh thổ Việt Nam, do đó khó có thể thực hiện được tham vọng tiêu diệt năng lực quân sự của Việt Nam trong các đòn đánh phủ đầu. Ngoài ra, kế hoạch hoàn toàn không tính toán tới các phản ứng của đối phương, khi chắc chắn Việt nam luôn có kế hoạch dự phòng chu đáo để bảo tồn năng lực quân sự và phản công trước các đòn đánh của tên lửa và máy bay Trung Quốc. Sau 20 năm chiến tranh với lực lượng quân đội mạnh nhất thế giới là Hoa Kỳ, hơn bất cứ quốc gia nào, người Việt nam có kinh nghiệm hơn ai hết về kỹ năng phân tán và bảo vệ khí tài chiến tranh trước các đòn oanh tạc không quân. Mà xét về năng lực thực sự, không quân PLA ngày nay còn thua không quân Mỹ những năm 1970 về khả năng tác chiến tổng thể.

Quân đội nhân dân Trung Quốc PLA hiện có gì trong tay? Trên bảng xếp hạng của Global Firepower, Trung Quốc xếp thứ ba trong số các quân đội mạnh nhất thế giới, chỉ sau Mỹ và Nga. Ngân sách quốc phòng năm 2014 của Trung Quốc khoảng 188 tỷ USD (số liệu thực theo ước tính của Mỹ), xếp thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ và gấp nhiều lần ngân sách quân sự Nhật Bản (50 tỷ USD) và Nga ( 98 tỷ USD).

Năm 2013, Trung Quốc lần đầu tiên công bố quân số của lực lượng vũ trang, số quân tại ngũ của Trung Quốc hiện khoảng 2,2 triệu người. Trong số 1,483 triệu quân sử dụng trực tiếp cho hoạt động tác chiến, lục quân có 850.000 quân, hải quân có 235.000 quân, không quân có 398.000 quân. Cũng trong năm 2013, Bộ Quốc phòng Mỹ dự đoán chỉ riêng Lục quân Trung Quốc đã có 1,25 triệu quân. Lục quân Trung Quốc biên chế tổng cộng 18 tập đoàn quân, thực chất là tập đoàn quân độc lập hợp thành các binh chủng, bao gồm tất cả các binh chủng. Bên dưới tập đoàn quân là các sư đoàn và lữ đoàn - ở cấp này bộ binh có 31 đơn vị, cơ giới có 23 đơn vị, xe tăng có 17 đơn vị, pháo binh có 19 đơn vị, hải quân đánh bộ có 5 đơn vị, nhảy dù có 3 đơn vị. Kho vũ khí lục quân có khoảng 7.000 chiếc xe tăng hiện đại, 8.000 khẩu pháo. Trong 18 tập đoàn quân, có 11 tập đoàn quân triển khai ở khu vực phía bắc Trung Quốc, giáp với Nga. Ngoài lực lượng nhảy dù và hải quân đánh bộ, lực lượng đặc nhiệm Trung Quốc cũng có nhiều nhất 14.000 quân, trong biên chế là các trung đoàn độc lập và tiểu đoàn đặc nhiệm. Các lực lượng nhảy dù, hải quân đánh bộ và đặc nhiệm Trung Quốc chủ yếu trang bị xe bọc thép nội địa, bao gồm xe tăng đổ bộ và xe chiến đấu bộ binh nhảy dù.

Ngoài ra, trong danh sách Lục quân Trung Quốc còn có lực lượng dự bị và cảnh giới được trang bị rất nhiều vũ khí cũ. Căn cứ vào các dự đoán khác nhau, Quân đội Trung Quốc tổng cộng có 9.000 - 12.000 xe tăng, khoảng 12.000 xe chiến đấu bộ binh và xe vận tải bọc thép (trong đó có 3.500 xe chiến đấu hiện đại), hơn 2.000 khẩu pháo tự hành các loại, gần 3.000 khẩu rocket, hơn 7.000 hệ thống tên lửa chống tăng, 15.000 pháo cao xạ và hệ thống tên lửa phòng không, khoảng 6.000 khẩu pháo kiểu kéo dắt và 10.000 khẩu pháo cối.
Vào cuối thế kỷ 20, so với Quân đội Mỹ, trang bị quân sự của Trung Quốc còn lạc hậu một thế hệ. Nhưng, hiện nay, tình hình đã thay đổi, Trung Quốc ở trình độ dẫn trước hoàn toàn về số lượng xe bọc thép bánh xích mới các loại. Đến nay, Quân đội Trung Quốc sở hữu gần 1.000 xe tăng Type 99, tính năng hoàn toàn có thể sánh ngang với xe tăng chiến đấu của các nước phát triển. Không lâu trước đã trang bị pháo tự hành và rocket hiện đại, bao gồm rocket Vệ sĩ-2D tầm bắn tối đa 400 km, có uy lực mạnh nhất thế giới. Tất cả những điều này cộng với sự thành công của công nghệ ô tô Trung Quốc (năm 2014 sản xuất gần 24 triệu xe), làm cho bộ binh Trung Quốc trở thành một lực lượng có tính cơ động mạnh, trang bị tốt. Ngoài ra, chuyên gia quân sự Mỹ chỉ ra, huấn luyện tác chiến của Quân đội Trung Quốc cũng đã có xu thế mới, bắt đầu thông qua diễn tập để tập các chiến dịch tiến công tốc độ nhanh với chiều sâu có thể đạt 1.000 km. Đồng thời, tiềm lực động viên khổng lồ của Trung Quốc vẫn chưa biến mất, ở đầu thế kỷ 21 dự đoán có thể động viên 380 triệu người, trong đó 208 triệu người thích hợp đưa vào biên chế.

Về số lượng máy bay tác chiến, Trung Quốc đứng thứ ba, chỉ sau Mỹ và Nga. Căn cứ vào dự đoán của chuyên gia Mỹ, Không quân Trung Quốc bao gồm lực lượng hàng không hải quân có khoảng 2.100 máy bay chiến đấu các loại tương đối tiên tiến và 1.500 máy bay chiến đấu cũ, khoảng 500 máy bay vận tải, hơn 100 máy bay giám sát và trinh sát đặc chủng, tổng cộng có khoảng 31 sư đoàn và 4 trung đoàn độc lập.

Lực lượng tên lửa hạt nhân Trung Quốc còn gọi là Lực lượng pháo binh 2 có khoảng 120.000 quân, tổng cộng có 1.500 - 2.000 quả tên lửa đạn đạo có thể lắp đầu đạn hạt nhân, bao gồm gần trăm quả tên lửa xuyên lục địa có thể tiêu diệt các mục tiêu trong lãnh thổ Mỹ và Nga.
Hiện nay, Trung Quốc đang sản xuất hàng loạt tên lửa chiến lược, từ tên lửa đạn đạo xuyên lục địa phóng giếng Đông Phong-5A lắp nhiều đầu đạn độc lập và có tầm bắn trên 13.000 km, đến tên lửa xuyên lục địa cơ động kiểu đường sắt và kiểu bánh lốp với tầm bắn có thể đạt 11.000 km, họ có đủ mọi thứ. Theo đánh giá của chuyên gia, về số lượng vũ khí hạt nhân Trung Quốc chỉ kém Nga và Mỹ, ít nhất có 130 quả tên lửa đạn đạo lắp đầu đạn hạt nhân, khoảng 40 quả tên lửa đạn đạo lắp đầu đạn hạt nhân trang bị cho tàu ngầm hạt nhân, vài chục quả bom hạt nhân trang bị cho máy bay ném bom chiến lược và 150 - 350 tên lửa hành trình lắp đầu đạn hạt nhân.

Hải quân Trung Quốc, được đầu tư mạnh liên tục trong nhiều năm, hiện nay cũng là một lực lượng rất đáng gờm. Căn cứ vào số liệu của Mỹ, năm 2014, Hải quân Trung Quốc tổng cộng có 1 tàu sân bay, 24 tàu khu trục, 49 tàu hộ vệ tên lửa, 9 tàu hộ vệ hạng nhẹ, 57 tàu đổ bộ và mấy trăm tàu tuần tra bảo vệ bờ biển cùng 61 tàu ngầm dầu diesel và 5 - 8 tàu ngầm hạt nhân. Hải quân Trung Quốc chia làm 3 hạm đội lớn trong biên chế tác chiến: Hạm đội Bắc Hải phụ trách bảo vệ Bắc Kinh từ phương hướng trên biển, Hạm đội Đông Hải và Hạm đội Nam Hải trước hết được sử dụng cho các hành động nhằm vào Đài Loan.

Trung Quốc cũng đã xây dựng cho mình một nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh. Các nhà cung cấp quốc phòng chính của Trung Quốc hiện nay bao gồm:

Tập đoàn Công nghiệp vũ khí Trung Quốc (Công ty Công nghiệp phương Bắc)
Tập đoàn trang bị vũ khí Trung Quốc (Công ty Công nghiệp phương Nam)
Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp và khoa học vũ trụ Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp cơ giới Trung Quốc

Với thực lực quân sự tổng hợp như trên, có thể nói PLA hiện nay là một đội quân hùng mạnh, gần như áp đảo các nước trong khu vực châu Á. Con số thống kê về số lính, số dân có thể huy động vào quân đội, số tăng, pháo, máy bay, tên lửa và số lượng tàu chiến có khả năng gây choáng váng cho những người yếu tim. Giống như bất cứ thời kỳ lịch sử nào, Trung Quốc chưa bao giờ thiếu người và thiếu số lượng vũ khí liệt kê. Tuy nhiên những con số ấy không phản ánh năng lực chiến tranh thực sự của người Trung Quốc.

Thứ Tư, 5 tháng 8, 2015

Quảng trường, tượng đài ông Hồ 1400 tỷ And Look around you!!!

Một xã hội văn minh là một xã hội có nhiều di sản hoành tráng. Các công trình kiến trúc, là một phần của nền văn hóa vật thể, luôn là biểu tượng của trình độ phát triển xã hội. Hầu hết các di chỉ kiến trúc vĩ đại trên thế giới đều do các nền văn minh rực rỡ nhất kiến tạo ra. Ngày nay dấu ấn của sự thịnh vượng có thể được nhìn thấy ở NewYork, London, Paris và một loạt các cường quốc có nền kinh tế phát triển cao trên thế giới.

Việt Nam, cố nhiên cũng muốn chứng tỏ sự văn minh và thịnh vượng bằng các công trình hoành tráng. Điểm khác duy nhất, là dường như sự hoành tráng đang được nỗ lực tập trung vào những công trình mang nặng ý nghĩa tuyên truyền, tức là các tượng đài tưởng niệm các lãnh tụ cộng sản.

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cộng sản với sự nghiệp để lại nhiều tranh cãi. Lý tưởng phát triển xã hội của ông ngày nay đã được lịch sử và chính những người kế tục ông gạt sang một bên lề vì tính ảo tưởng của nó. Nhiều người nói ông là một người luôn đề cao và tôn trọng nhân quyền, nhưng chế độ ông dựng ra và để lại đến ngày nay lại là một trong những thể chế độc tài có hạng. Có nhiều huyền tích về đức tính giản dị và tiết kiệm của ông, nhưng lăng mộ của ông tại quảng trường Ba Đình và quần thể kiến trúc lăng xung quanh lại là một trong những công trình tốn kém bậc nhất, với diện tích nhiều chục hecta ở vị trí đắc địa nhất thủ đô, cộng với chi phí duy trì nguyên một Bộ tư lệnh bảo vệ hàng năm, chi phí đều từ tiền đóng thuế. Không rõ ông giản dị tới mức nào khi còn sống nhưng sự xa hoa của ông sau khi chết thì lại là một thực tiễn không thể chối bỏ.

Lăng ông Hồ uy nghi nhìn từ phía trước

Và hàng chục hecta của quần thể Lăng khi nhìn từ trên cao:

Tuần đầu tháng 8/2015, tràn ngập thông tin báo chí là hình ảnh khu vực Quảng Ninh và nhiều tỉnh Tây Bắc ngập trong bão lũ. Thiệt hại trực tiếp về vật chất là nhiều nghìn tỷ đồng, về con người tính đến nay cũng đã có nhiều chục người thiệt mạng. Nhiều khu vực dân cư vẫn chìm sâu trong bão lũ, nhiều ngôi nhà bị nhấn chìm dưới hàng mét bùn đất. Khó có thể nói thiệt hại về lâu dài sẽ là bao nhiêu, bởi ngoài các tổn hại trước mắt, còn cả về hậu quả khó ước tính về môi trường, khi bùn đất trong bão lũ chứa quặng than và rất nhiều kim loại nặng. Con số có thể là hàng chục nghìn tỷ để khôi phục các khu vực bị ảnh hưởng và khắc phục hậu quả môi trường.

Cũng trong những ngày đầu tháng 8/2015, Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La thông qua nghị quyết xây dựng quần thể Quảng trường và tượng đài ông Hồ Chí Minh với kinh phí 1400 tỷ. Để phản bác các thông tin về dựng tượng ông Hồ tốn kém, ông Cầm Ngọc Minh, chủ tịch tỉnh Sơn La đăng đàn giải thích, tượng ông Hồ chỉ 200 tỷ thôi, còn lại là chi phí cho quần thể quảng trường. Giải thích của ông có vẻ hợp lý vì mỗi cái tượng mà chi tới 1400 tỷ quả thực quá nhiều. Nhưng ông kém sòng phẳng khi lờ đi thực tế rằng không dựng tượng ông Hồ thì chẳng ai cấp kinh phí cho ông làm quần thể quảng trường tới hơn nghìn tỷ như thế.

Câu chuyện cuối cùng đặt ra là tiền sẽ tính từ đâu? Chẳng có vấn đề gì nếu Sơn La là một tỉnh giàu có như Singapore, tuy nhiên đây lại là một trong những khu vực nghèo nhất cả nước. Thu ngân sách toàn tỉnh Sơn La năm 2014 là 2680 tỷ đồng. So sánh con số ấy với dự án 1400 tỷ để làm quảng trường và tượng ông Hồ cho thấy lãnh đạo tỉnh này quả là những bậc thầy tiêu tiền thiện nghệ. Dự chi ngân sách tỉnh Sơn La năm 2015 đạt trên 9500 tỷ đồng. Điều đó đồng nghĩa với việc Sơn La nhận được sự hỗ trợ cân đối ngân sách rất lớn từ Trung Ương. Điều đó đáng ra cần phải đặt lãnh đạo Sơn La trước một bài toán nặng về đạo đức: Mọi đồng tiền họ định chi ra, đều dựa trên sự cân đối hỗ trợ rất lớn từ tiền đóng thuế của người dân cả nước.

Số tiền 1400 tỷ thực tế có thể làm được những gì? Nếu lấy quy mô đầu tư trung bình của một dự án sản xuất dăm gỗ, hoặc chế biến nông sản, có mức đầu tư khoảng 30 tỷ, mỗi dự án giải quyết việc làm cho 300 - 500 lao động, thì số tiền 1400 tỷ nếu được sử dụng tốt để đầu tư cho phát triển kinh tế, hoặc để các doanh nghiệp vay, có thể tạo mới ít nhất 50 nhà máy và cụm nhà máy có mô hình hoạt động phù hợp khu vực Tây Bắc và Sơn La, tạo thêm công ăn việc làm cho 15000 - 25000 lao động, với tổng doanh thu tính thuế có thể ước đạt 10000 tỷ đồng.

Tây Bắc và Sơn La, hiện trạng là một khu vực có tỷ lệ hộ nghèo còn trên 26%.

Bỏ qua khả năng siêu hạng của lãnh đạo nhiều tỉnh và lãnh đạo Trung Ương Việt Nam về năng lực tiêu tiền. Hãy nói về ý nghĩa xã hội và dấu ấn thịnh vượng về quần thể tượng đài ông Hồ cũng như các dấu tích tượng đài của chế độ cộng sản trên khắp Việt Nam. Có thể nói càng những nơi nghèo thì lãnh đạo địa phương càng ấp ủ những dự án tượng đài hoành tráng. Thay vì dấu ấn kiến trúc văn minh đại diện cho sự thịnh vượng, người ta chỉ nhìn thấy ở đó những nguồn lực quốc gia mất hút trong lúc đất nước còn nghèo.

Trong đám tang của ông Lý Quang Diệu, cha già lập quốc Singapore, một trong những đảo quốc ngày nay đã thành nơi thịnh vượng hàng đầu thế giới (Những năm 1960, kinh tế Singapore thua xa Sài gòn), ông Lý Hiển Long thủ tướng Singapore có nhắc đến điều này trong điếu văn: "Nếu có một ai đó đến Singapore và hỏi: Tượng đài ông Lý Quang Diệu ở đâu??? Người đó sẽ nhận được câu trả lời: "Hãy nhìn xung quanh bạn - LOOK AROUND YOU!!!". Ông Lý Hiển Long và người dân Singapore có thể tự hào về điều này, toàn bộ những công trình hạ tầng, những thành tựu kinh tế và sự phồn thịnh rực rỡ ngày nay của đất nước Singapore chính là tượng đài rực rỡ nhất của ông Lý Quang Diệu, dù người Sing vẫn chưa đúc một bức tượng hay xây một quảng trường nào để tưởng niệm ông, dù họ có thể làm điều đó thật dễ dàng với GDP hơn 321 tỷ USD. (Để so sánh, 7,5 tr người Sing làm ra 321 tỷ USD một năm, 90 tr người Việt cặm cụi làm ra khoảng 180 tỷ USD/năm)

Ông Hồ Chí Minh và các lãnh tụ cộng sản có vô số tượng đài, quảng trường và nguyên một quần thể Lăng nằm chính giữa Ba Đình để tưởng niệm về sự nghiệp của ông, nhưng nếu LOOK AROUND YOU khắp Việt Nam để nhìn vào thực trạng kinh tế đất nước, khi vẫn còn nằm trong top đáy của các nước trung bình, chất lượng cuộc sống và hệ thống an sinh xã hội cho người dân vào loại thấp nhất thế giới, tình trạng bất bình đẳng ngày một gia tăng trong lúc tham nhũng trở nên bất trị. Ông Hồ nếu quả thật là một người liêm khiết, yêu dân và ưa tiết kiệm, có lẽ khó có thể tự hào khi nhìn thấy những tượng đài ấy của mình và có lẽ phải ghê sợ với di sản mà ông để lại cho hậu thế hôm nay.