Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015

Tại sao, nước Nga?

Mấy ngày hôm nay anh Lãng rất "tâm tư". Tự nhiên có hứng muốn viết nhiều hơn dù rằng đây chỉ là một thú vui cá nhân và chẳng mang lại lợi ích mẹ gì cho anh. Với một người thực dụng ích kỷ hại nhân như anh Lãng thì đây là một thú vui lãng phí.

Nhiều vấn đề xếp hàng theo mạch tư duy, và anh lăn tăn cân nhắc xem nên đùa cợt với vấn đề nào trước. Một vài bạn đề nghị anh viết về giai đoạn lịch sử 1954 - 1975, về vai trò của Đảng Cộng Sản tại Việt Nam, chủ đề có lẽ gây hứng thú lớn cho thành phần lề trái và luôn nằm trong danh sách chửi bới ưu tiên của dư luận viên lề phải. Anh Lãng không thuộc nhóm nào trong hai loại đó, anh là lãnh tụ :), nghĩa là chẳng của đéo ai, cho nên anh chỉ viết về những gì anh thấy nó gắn với lợi ích của Việt Nam xét trong mối quan hệ tương tác với các nước khác.

Một chủ đề mà anh thích viết, ấp ủ ý tưởng về một "Chiến lược giữ nước của Việt Nam trước Trung Quốc trong thế kỷ 21". Ý tưởng thì đã có, nhưng khi định bắt tay vào viết thì anh thấy thật ghê sợ. Nó sẽ chiếm rất nhiều thời gian, với một tầm bao quát rộng mà anh không thể cắt bớt bất cứ phần nào vì bản thân nó nằm trong một chỉnh thể gắn kết. Nếu bắt tay vào viết, nó sẽ là một dự án Lãng luận dài nhất từ trước đến nay. Theo quan điểm của anh, nó có thể giúp Việt Nam trụ vững trước Trung Quốc trong 20 năm tới. Nhưng cũng vì thế mà anh sợ đéo bắt tay vào. Anh đành chờ đến lúc nào đó anh có đủ hứng thú để quay lại với dự án này.

Cho nên, anh chọn một đề tài hẹp, viết ngắn ngắn cho phù hợp tính lười. WHY, RUSSIA?

Tháng 09/2014, trong lúc cuộc chiến Ucraine đang ở thời kỳ cao điểm, anh viết một thiên Lãng luận với tiêu đề : "Ucraina và câu chuyện Việt Nam" http://langlanhtu.blogspot.com/2014/09/ucraina-va-cau-chuyen-viet-nam.html
Bỏ qua những câu chuyện phân tích về tình hình Ucraine, có lẽ ý tưởng quan trọng nhất của bài viết nằm ở đoạn trích:
"Thế giới ngày nay đang ngày một bất ổn. Đại chiến thế giới lần thứ ba không còn là một nguy cơ mà đang là một bóng ma lẩn khuất trước mắt nhân loại. Nước Mỹ và phương tây vẫn trên đà trượt dài về quyền lực. Hơn thế, đang phạm sai lầm về mặt chiến lược trong việc lựa chọn đối thủ. Điều đó khiến châu Âu đang sai lầm trong cách cư xử ở Đông Âu và với nước Nga, khiến họ tạo một kẻ thù nguy hiểm thay vì có Nga như một phần của châu Âu. Và điều quan trọng hơn, tình trạng ấy đẩy cả Mỹ, Nga và Tây Âu vào một sai lầm chiến lược: Nga buộc phải bắt tay và lệ thuộc sâu hơn vào Trung Quốc, các nguồn lực của Mỹ và phương Tây bị phân tán, trong khi Trung Quốc ngày càng có nhiều lợi thế và chộp được những cơ hội béo bở hơn cho tham vọng xâm lược và thôn tính lãnh thổ của nó. Chính Trung Quốc, chứ không phải Nga hay thế giới hồi giáo cực đoan, là hiểm họa lớn nhất cho một cuộc thế chiến có thể nhấn chìm nhân loại với tham vọng ngày một hung hăng với sức mạnh gia tăng của nó."

Phương Tây và nước Nga đều là nơi tập trung những bộ óc tinh hoa của nhân loại. Các chiến lược gia của họ không đần để nhận ra thực tế và những sai lầm của mình. Tuy nhiên, mọi quyết sách của giới kỹ trị cao cấp, đôi khi, một cách đầy bi kịch, lại phải mang cái nội hàm của một bọn ngu đần. Lý do vì mỗi chính sách ban hành đều phải căn cứ vào thực tế của từng quốc gia, trong đó có tình cảm của đại bộ phận dân đen. Dân đen luôn nằm trong sự cai trị và dẫn dắt của đám chóp bu. Nhưng sự tuyên truyền định hướng quá đà của đám chóp bu cuối cùng lại có thể tạo thành các xu thế ngu đần mà sau đó đám chóp bu không cách gì chặn lại tức thời, chỉ có cách buông xuôi và lựa thế.

Năm 2015, anh quay lại tình hình nước Nga trong một đoạn nhận định thoáng qua trong thiên Lãng luận: Việt Nam năm 2015, chông chênh giữa ngã ba đường http://langlanhtu.blogspot.com/2015/02/viet-nam-nam-2015-chong-chenh-giua-nga.html
"Nhìn rộng ra thế giới, 2015 vẫn là một năm thuộc về Trung Quốc. Nước Mỹ, châu Âu và Putin sẽ mất ít nhất 1 năm để hạ nhiệt lò lửa tại Ucraine và tái lập lại quan hệ kinh tế song phương. Cả Mỹ, châu Âu hay nước Nga đều thừa thông minh để hiểu rằng tình thế hiện nay gây tổn hại cho tất cả và ngư ông đắc lợi chỉ mình Trung Quốc. Khi nước Nga bị tách rời khỏi châu Âu, nó mất cơ hội trở thành một phần của thế giới văn minh, và việc hợp tác sâu hơn với Trung Quốc chỉ khiến sức mạnh so sánh của Nga yếu dần so với người Tàu. Sau 30 năm, khi dân số Nga xuống dưới 100 tr, người Nga thậm chí còn không đủ tư cách đứng thẳng người trước Trung Quốc, chưa nói gì tới việc đủ nguồn lực để bảo vệ vùng viễn đông mênh mông giàu có. Với nước Mỹ, lò lửa Ucraine càng kéo dài thì càng khiến chiến lược xoay trục về phía Đông tổn hại. Cuối cùng, cả Mỹ và Nga đều sẽ phải nhận ra rằng đối đầu khiến cả hai thiệt hại. Đối thủ của Mỹ trong 20 năm tới, vĩnh viễn không phải là Nga mà chỉ duy nhất Trung Quốc. Thay vì việc nỗ lực đẩy biên giới Nato tới sát Nga, Mỹ và châu Âu cần tính tới các hiệp ước an ninh đủ sức mạnh với Asean và Trung Á. Xu hướng hoà hợp Mỹ, Nga, EU do đó là một tất yếu, nhưng xu hướng này sẽ bị làm chậm lại bởi dư luận xã hội, vốn có một quyền lực riêng biệt ở các nước phương tây."

Anh tin chắc rằng, cả Nga và Mỹ đều hiểu đâu là bản chất vấn đề và các nước này, bất chấp các lập luận tuyên truyền đối nhau chan chát, đều tìm mọi cách để tái lập quan hệ. Lợi ích chiến lược của mỗi nước sẽ thúc đẩy xu hướng tất yếu ấy. Tuy nhiên dư luận xã hội mỗi nước, vốn có một quyền lực riêng biệt trong các nền văn minh phương Tây (Nga được tính là văn minh một nửa), sẽ là một lực cản làm chậm tiến trình.

Nước Nga sau năm 91, gần như chỉ sau một đêm, mất đi hầu hết tiềm lực và niềm tự hào. Dù những khó khăn kinh tế và sức ì hệ thống đã bủa vây Liên Xô từ những năm 1970, nhưng cho đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, người Nga vẫn sống trong cái bóng của niềm tự hào sức mạnh quốc gia. Biến cố lịch sử tan vỡ của khối Varsawa khiến người Nga phải đối mặt với thực trạng kinh tế bi đát và tan vỡ luôn hình ảnh của một cường quốc vốn đủ khả năng san bằng văn minh nhân loại bằng vũ khí nhiệt hạch.

Đến tận những năm 2006, Nga không phải là một vấn đề trong mắt phương Tây. Biên giới Nato liên tục mở rộng về phía Đông, bất chấp các cam kết trước đó 15 năm của các đời Tổng Thống Mỹ. Phẫn nộ nhưng bất lực, người Nga ngậm ngùi nhìn Balan, 3 nước Bantich và một loạt các quốc gia Đông Âu cũ gia nhập khối hiệp ước Bắc Đại tây dương. Trong một thời gian dài, Nga vật vã với các cuộc chiến nối tiếp tại Checnhya và các cú sốc mà việc chuyển đổi mô hình kinh tế gây ra. Tuy nhiên, Putin dường như là một gã Ivan số đỏ. Từ lúc Putin lên nắm quyền, giá dầu và khí đốt thế giới liên tục gia tăng (tới 6,8 lần nếu so với thời điểm Putin bắt đầu nắm quyền). Nhờ đó, Putin giải quyết khá ổn thỏa lò lửa Checnhya, chặn lại làn sóng hồi giáo điên loạn vốn đe dọa lan sang Dashestan và một loạt nước cộng hòa tự trị vùng Trung Á trong thành phần Liên Bang Nga. Đầu năm 2006, nước Nga rơi vào tình trạng giống hệt Hy lạp hiện nay khi tuyên bố không thể trả nợ 40 tỷ USD cho các chủ nợ nước ngoài. Chỉ 8 tháng sau đó, Putin rút hầu bao liền lúc 22,5 tỷusd để thanh toán toàn bộ số nợ nần tồn đọng từ thời Liên Xô cũ. Khác Hy Lạp, Putin không đi vay mà rút toàn bộ cục tiền này ra từ nguồn thặng dư ngân sách. Thậm chí để tránh việc nước Nga tiếp tục hút máu bởi phải trả lãi cho các khoản nợ kéo dài, Putin đề nghị trả khoản bồi thường 1 tỷ usd cho việc tất toán các khoản nợ chưa đến hạn. Đó là năm thứ 6, gã số đỏ Putin nắm quyền tổng thống.

Kể từ thời điểm đó, thế giới buộc phải nhìn Nga dưới một con mắt khác. Putin củng cố quyền lực bên trong, bằng việc triệt hạ các chính trị gia và các nhà tài phiệt cứng đầu đối lập. Một loạt bị tước đoạt tiền bạc và ném vào tù, ví dụ như Khodorkovsky, từng là người giàu nhất nước Nga, vì hăng máu họp hành với thư ký hội đồng an ninh Mỹ và công khai đối lập với Putin mà về sau bị đì không ngóc đầu lên nổi. Với uy tín dâng cao khi đem lại niềm hy vọng cho dân Nga sau 2 thập kỷ sống trong tủi nhục, Putin trở thành một thứ đại loại như "Bố già dân tộc", và luôn là ông chủ của nước Nga dù ở vị trí Tổng thống hay thủ tướng. Tuy nhiên, so với thời đỉnh cao của Liên Xô cũ, Nga vẫn chỉ là một hình bóng mờ nhạt so với chính mình. Sở hữu kho vũ khí nhiệt hạch vẫn còn đủ năng lực quét sạch thế giới nhều lần, nhưng tiềm lực quốc phòng thực chất của nước Nga thì đã rớt xuống hạng 3 trong biểu đồ cường quốc. 20 năm đói kém, đủ để quét sạch số công nhân và kỹ sư lành nghề trong nền công nghiệp quốc phòng, từng đóng loạt những chiến hạm tối tân và những cỗ xe tăng khét tiếng. Nga duy trì sức mạnh răn đe chỉ bằng kho vũ khí từ thời Sô Viết, ngày một cũ dần và lạc hậu theo thời gian. Một số trung tâm nghiên cứu vẫn đưa ra các mẫu máy bay, tên lửa và xe tăng hàng năm, nhưng nó không có ý nghĩa gì lắm đối với việc nâng cao sức mạnh quân sự Nga, vì với nền công nghiệp quốc phòng èo ọt hiện nay, số đơn vị vũ khí mới hàng năm Nga có thể đưa vào sản xuất mỗi năm chỉ tính bằng số đếm ngón tay, và chẳng có ý nghĩa lớn nào trong thay đổi về chất năng lực quân sự Nga. (Thời Xô Viết, mỗi mẫu vũ khí chiến lược mới người Nga có thể sản xuất với đơn vị hàng nghìn mỗi tháng).

Nhờ tiền thặng dư bán dầu, Putin đề ra kế hoạch đầy tham vọng, hiện đại hóa toàn bộ quân đội Nga với kế hoạch cả gói 700 tỷ USD. Điều này sẽ làm thay đổi toàn bộ cán cân sức mạnh châu Âu và thế giới. Mỹ quan sát cuộc chiến Georgia năm 2008 với con mắt bàng hoàng và bất lực (Thiên Lãng luận: "Bắc Caucasus và một trật tự thế giới mới" phần 1&2 )
Nước Nga đã trở lại.

Nga mạnh lên, và tuần trăng mật Nga - Phương Tây chấm dứt. Cả hai bên đều vật vã tái định hình góc đánh giá về nhau, và dưới sự ảnh hưởng của bóng ma quá khứ, cả hai phía đều phạm sai lầm.

Trước năm 2006, Putin từng công khai đề cập về khả năng gia nhập Nato. Máy bay Mỹ từng được quyền bay qua lãnh thổ Nga và sử dụng các căn cứ quân sự tại vùng Trung Á để tiếp vận cho cuộc chiến chống Taliban. Nhưng thời kỳ thân thiện ấy không kéo dài lâu. Sâu trong lòng nước Nga, là làn sóng tuyên truyền về câu chuyện chống Nga của thế giới phương Tây, và trong lòng nước Mỹ, là một nước Nga đang lên với kho vũ khí hạch tâm đe dọa. Dù rằng thực tế trong hơn 70 năm gầm ghè nhau giữa Liên Xô và Mỹ, vũ khí hạch tâm chỉ là thứ hai bên đem ra dọa nhau, trong những thời kỳ mấu chốt, cả hai phía thay vì lao vào choảng nhau sinh tử, đều tìm cách xuống thang và hòa giải. Như trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba hoặc việc Mỹ đặt tên lửa hạch tâm tại Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy tại sao khi nước Nga đã yếu bớt rất nhiều và thân thiện hơn với thế giới phương Tây, Mỹ và châu Âu vẫn phạm sai lầm để rồi hai phía nhanh chóng biến thành địch thủ?

Ở đây là một câu chuyện ngu đần khi các quyết sách chính trị chịu tác động của các dòng dư luận tuyên truyền mất kiểm soát. Nước Nga kế thừa hầu hết thành quả vĩ đại của đế chế Liên Xô, cũng mang luôn trong nó dấu ấn của sự xấu xa được tuyên truyền tới hơn 70 năm trong lòng các xã hội phương Tây. Khi Nga yếu đuối và chênh vênh giữ mối nguy phá sản, Nga không phải là mối bận tâm. Nhưng khi nó bắt đầu mạnh lên, Mỹ quay trở lại coi nó như một nguy cơ chính.

Trên thực tế Có 3 điều khiến nước Nga không phải là một mối đe dọa chính với hòa bình:

1. Nga có diện tích lãnh thổ lên tới 17,075,400 km², chiếm một phần chín tổng diện tích lục địa trên thế giới. Lãnh thổ Nga vắt ngang hai châu lục Á Âu, chiếm tới 40% diện tích toàn châu Âu, trải rộng qua 11 múi giờ và sở hữu hầu hết các nguồn tài nguyên trọng yếu với trữ lượng rất dồi dào. Trong khi đó, chỉ có 143 triệu người mang quốc tịch Nga để bảo vệ và chia nhau những nguồn tài nguyên mênh mông ấy. Diện tích Nga đứng đầu thế giới, nhưng mật độ dân số trên diện tích lãnh thổ đứng chót bảng từ dưới lên, có 8,3 người/km2. Tính từ năm 1990, do các biến động xã hội và sức khỏe, suất sinh của Nga giảm dần theo từng năm và dân số Nga liên tục giảm. Nhìn nhận về mặt chiến lược và phân tích xu thế nhân khẩu học thế giới trong 50 năm qua, nước Nga gần như không thể đảo ngược tình hình. Người Nga sẽ ngày càng có ít người hơn để bảo vệ lãnh thổ mênh mông và các nguồn tài nguyên gây thèm khát của mình. Tại sao Nga lại có thể là đe đọa nếu hiểu hòa bình là việc không đi xâm lăng nước khác?

2. Ngay trong thời đỉnh cao chiến tranh lạnh, Liên Xô mà nòng cốt là nước Nga luôn có xu hướng cư xử kiềm chế và hòa bình. Cuộc chiến lớn duy nhất Liên Xô tham dự sau thế chiến là cuộc can thiệp những năm 1980 vào Apghanistan, trong khi Mỹ có mặt trong hầu hết các cuộc xung đột ở mọi nơi trên thế giới.

3. Nước Nga hòa nhập từ từ nhưng chắc chắn vào châu Âu sau năm 1991. Các mối quan hệ Nga - Đức, Nga - Pháp và phần còn lại của châu Âu trên thực tế rất sâu sắc và quan trọng nhiều hơn những gì được cả hai bên nhắc đến. Nga không còn có bên mình nguyên một khối đồng minh Đông Âu đông đảo như thời đế chế Liên Xô. Dù nó trở lên mạnh mẽ về kinh tế và quân sự, Nga vĩnh viễn chỉ có thể tự bảo vệ chính mình chứ không thể là một thế lực đủ khả năng gây chiến và xóa sổ phương Tây như quá khứ. Vậy tại sao, nó có thể là đe dọa chính?

Tuy nhiên, đối với Mỹ và châu Âu, vấn đề là Nga được thừa hưởng khu vũ khí hạch tâm đủ sức xóa sổ toàn bộ phương Tây, và cuộc chiến tuyên truyền kéo dài hơn 70 năm trong quá khứ khiến dư luận coi Liên Xô (trước đây) và Nga (hiện nay) là một nguy cơ chính với hòa bình đã bắt rễ thâm căn cố đế trong lòng nước Mỹ. Liên Xô sụp đổ và nước Nga yếu ớt khiến dòng dư luận chủ lưu này chỉ tạm nhạt đi. Nó càng nhạt hơn khi biên giới Nato tiến dần về phía đông và nước Nga bên lề phá sản đầu năm 2006. Khi Nga trả nợ và tái đầu tư quốc phòng, luồng dư luận chính trong lòng phương tây nhanh chóng quay lại chi phối nền chính trị của cả khối liên minh này. Kết cục của nó là một chính sách thù địch đối đầu mà cả hai phía đều phạm sai lầm chiến lược.

Trong lòng nước Nga, cũng là một câu chuyện giống thế. Sau nhiều thập kỷ quen với vị thế của một dân tộc siêu cường, người Nga cúi đầu trong tủi nhục khi sức mạnh quốc gia suy thoái. Đầu những năm 90, người Nga hân hoan khi chế độ cộng sản độc tài sụp đổ, phương Tây với họ là cảm ứng của sự giàu có và tự do. Nhưng những gì diễn ra trong nhiều chục năm sau đó khiến dân Nga hiểu chẳng có miếng bánh nào là miễn phí. Họ chật vật xây dựng lại quốc gia và phải đối phó với chính sách bắt nạt dần của phương tây. Những luận điệu tốt đẹp nhanh chóng nhường chỗ cho những câu chuyện mang tính đối đầu. Xu hướng chống Mỹ trong xã hội Nga cũng nhiều ngang xu hướng chống Nga trong nước Mỹ, dù rằng mức độ đe dọa lẫn nhau của cả hai thực tế nhỏ hơn rất nhiều lần những gì hai phía tuyên truyền.

Đến tận tháng 7/2015, khi Mỹ đã gần như bị Trung Quốc soán ngôi với vai trò nền kinh tế lớn nhất thế giới, thì một phần giới tinh hoa Mỹ vẫn coi Nga là nguy cơ số 1: Ngày 22/7, Tướng Mark Milley, ứng cử viên chức Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, nhận định tiềm năng hạt nhân của Matxcơva đủ để xóa sổ nước Mỹ và khẳng định chỉ Nga là quốc gia duy nhất có thể làm điều đó.

Đây là ví dụ điển hình cho thấy sự ảnh hưởng của các chính sách định hướng dư luận không còn hợp thời có tác động lớn đến thế nào tới các quyết sách quốc gia. Đến đây, cả Nga và Mỹ có lẽ cùng phải quay lại ánh sáng của vấn đề, như những gì anh Lãng đã đề cập tới trong đoạn trích hai thiên Lãng luận.

Diễn biến thực tế cho thấy, dù Nga suy yếu nhưng nó vẫn đủ khả năng phòng thủ tại những vùng giáp giới. Nó muốn sống trong hòa bình, với điều kiện không bị bắt nạt quá đáng. Với Mỹ và Châu Âu, việc biến Nga thành một đối tác, thậm chí là một đồng minh có lợi ích và chi phí nhỏ hơn nhều lần so với triệt hạ Nga để xóa đi vai trò của Nga tại châu Âu và thế giới. Ngược lại, sau cuộc chiến phong tỏa ngót 1 năm, Nga cũng dư hiểu đâu là thực tế vấn đề. Quay lưng với châu Âu, Nga sẽ bước trên con đường man rợ hóa. Việc bắt tay với Trung Quốc không phải là lời giải cho Nga, trái lại, nó chỉ là sự khởi đầu cho một cơn ác mộng. Tranh thủ nước Nga cần bạn bè khi châu Âu cô lập, Trung Quốc nhanh chóng và tìm cách thọc chân sâu vào Trung Á, vùng sân sau truyền thống của Nga. Không chỉ vậy, ngay cả đất đai Nga tại Viễn Đông cũng khiến Trung Quốc thèm thuồng và tìm cách xâm lấn từ từ. Tháng 6 năm 2015, Duma quốc gia Nga gióng lên hồi cảnh báo mãnh liệt về các kế hoạch thôn tính đất đai thông qua việc thuê đất lâu dài và di dân từ từ của Trung Quốc ở viễn đông. Hợp tác với châu Âu đem lại cho Nga sự thịnh vượng và văn minh. Hợp tác với Trung Quốc mang lại cho Nga cái chết từ từ, ngày một đến gần khi dân Nga theo thời gian liên tục suy giảm.

Trong những ngày tháng cuối của nhiệm kỳ, gã nhọ Obama ngày một khao khát ghi dấu ấn vào lịch sử như một tổng thống thông thái nhất. Obama nỗ lực giải quyết nhiều vấn đề. Chính sách xoay trục sang phía đông để đối phó đối thủ chiến lược duy nhất của Mỹ là Trung Quốc giờ đã ngả bài hầu như toàn bộ. Chiến hạm và các phương tiện chiến tranh tối tân của Mỹ được dồn về khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Nếu Trung quốc khiến các nước Đông Nam Á bất lực khi đoàn chiến hạm của nó xuôi nam, và dựng lên những căn cứ nhân tạo khổng lồ giữa biển, thì Mỹ khiến Trung Quốc bất lực không kém, khi máy bay và chiến hạm Mỹ lượn vè vè không kiêng nể ở mọi nơi mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở biển Đông. Không chỉ vậy, Obama nỗ lực giải bài toán Why, russia? bằng những chính sách không nghỉ ở hậu trường. Dù chính sách Mỹ đối với Ucraine hiện chưa rõ ràng do bị chi phối bởi các dòng dư luận dân đen vốn bị tuyên truyền từ lâu trong quá khứ, nhưng rõ ràng Mỹ không can thiệp quân sự, thậm chí đang giảm dần sự hỗ trợ khi thực tế ngày một chứng tỏ chẳng có hy vọng gì có một Ucraine mạnh mẽ thân phương Tây giáp Nga, mà chỉ có ở đó một đống đổ nát tan hoang và là một mảnh đất màu mỡ cho cực đoan cũng như Phát xít. Putin, hơn bao giờ hết cũng vỡ mộng với giấc mộng hướng đông, khi vấp phải một người bạn lớn chỉ mong xiết cổ Nga chết từ từ. Thế giới ngỡ ngàng, khi Putin và Obama bắt tay nhau giải quyết hồ sơ gai góc Iran, trong bối cảnh cuộc chiến tuyên truyền của cả hai vẫn không ngừng nghỉ. Nhằm tranh thủ tối đa các bước tiến gần nhau, báo chí loan tin Obama điện đàm với Putin để nói lời cảm ơn về sự hợp tác của Nga trong câu chuyện Iran. Một điều khó hiểu với bọn ngu đần nhưng là điều được đám chóp bu dự đoán từ lâu và chỉ còn chờ ngày diễn ra trên thực tế. Đúng như nhận định của anh Lãng trong hai thiên Lãng luận đã trích dẫn: "cả Mỹ và Nga đều sẽ phải tìm cách tái thiết lập quan hệ song phương, sau một loạt chính sách sai lầm, bởi đó là xu hướng tất yếu nằm dưới sự chi phối của quyền lợi quốc gia mỗi phía".

Đây là một bước lớn tiến đầu tiên trong chặng đường hòa giải hai bên. Đức và Pháp sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong cả tiến trình. Dù rằng lò lửa Ucraine sẽ vẫn là một rào cản không dễ san bằng, nhưng càng ngày nhiều người Nga càng nhận ra rằng, việc có một lò lửa ở ngay sát bên mình không những không đem lại lợi ích, trái lại chỉ hàm chứa những nguy cơ ngày một lớn theo thời gian.

Với nước Mỹ, việc giải quyết xong hồ sơ Iran khiến nguồn lực Mỹ rảnh giang hơn trước rất nhiều. Và với những bước tiến lớn đầu tiên để giải bài toán ám ảnh Why, Russia? Obama ngày càng có nhiều nguồn lực trong tay cho kế hoạch phía Đông. Mỹ sẽ thành công khi nó thiết lập xong TPP, và duy trì đủ năng lực quân sự khống chế Thái Bình Dương để bảo đảm an toàn cho các dòng thương mại chảy ra và chảy vào trong lòng nước Mỹ.

Những xu hướng lớn trên thế giới, rất may mắn, lại phù hợp với dòng chảy lợi ích của người Việt Nam. Đây là lần đầu tiên sau 70 năm chiến tranh loạn lạc và ngu đần, người Việt Nam có cơ may hòa nhập vào dòng chảy chung của nền văn minh nhân loại, hứa hẹn thịnh vượng và hòa bình. Tất nhiên, chúng ta sẽ phải giải bài toán của riêng mình, anh tạm gọi là How, Vietnam? sẽ được bàn tới trong thiên Lãng luận bàn về chính sách chiến lược phát triển kinh tế và giữ nước của Việt Nam trong thế kỷ 21, mà chính anh cũng chưa biết lúc nào anh viết :P

Sự ra đi của một "Tâm Tư"


(Đây là bài viết gốc ngày 20/07/2015, khi hãng tin DPA của Đức loan tin về cái chết của ông Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng BQP Việt Nam. Do các thông tin cải chính từ Việt Nam, DPA sửa lại thông tin của mình sang dạng nghi vấn. Dù vậy, ông Thanh vẫn bặt tăm sau đó. Anh đã sửa bài viết trên facebook cho phù hợp tin cải chính của DPA
link: 
https://www.facebook.com/notes/lang-anh/s%E1%BB%B1-ra-%C4%91i-h%E1%BB%A5t-c%E1%BB%A7a-m%E1%BB%99t-t%C3%A2m-t%C6%B0/10203372704318379

Tuy nhiên, vẫn lưu bài viết gốc ở đây, vì sự bặt tích của ông Thanh tính đến thời điểm này là một điều không thể giải thích)

 P/S: Khi post note này, anh Lãng lét mắt thấy Vietnamnet đăng tin phản bác tin tức của DPA, nói ông Thanh vẫn còn khỏe mạnh và DPA loan tin vịt. Nếu quả vậy thì mừng cho ông Thanh và gia quyến. Ngược lại, Thông tấn xã DPA của Đức cần phải "rút kinh nghiệm nghiêm túc và sâu sắc" đối với sai lầm rất nghiêm trọng này :). DPA là một hãng thông tin uy tín, mà giờ lại phạm sai lầm kiểu này rất là đéo được. Anh Lãng giữ nguyên note này, vì nhiều nội dung phân tích gắn với các sự kiện chính trị chứ không phải chỉ với thông tin về cái chết của ông Thanh.

Sáng nay anh Lãng lét mắt đọc trang tin tiếng anh của DPA, trang tin chính thức của Cộng Hòa Liên Bang Đức, thì thấy một tin rất giật mình: "http://www.dpa-international.com/news/asia/vietnam-defence-minister-dies..."

Theo trang thông tin này, thì Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã qua đời vào ngày chủ nhật 19/07/2015 tại một bệnh viện của Pháp, sau một thời gian điều trị căn bệnh ung thư phổi ở đây.

Điểm lại các sự kiện liên quan, thì hoạt động gần nhất của Đại tướng Phùng Quang Thanh là cuộc gặp với Bộ trưởng quốc phòng Pháp vào ngày 19/06/2015. Khi đó, trông ông còn rất khỏe mạnh:


Ngày 02/07/2015, nhiều tờ báo trong nước loan tin, ngày 30/06/2015, ông Phùng Quang Thanh đã được phẫu thuật khối u tại một bệnh viện của Pháp, dẫn nguồn từ Ban bảo vệ sức khỏe Trung Ương. Đây là tin tức chính thống duy nhất về ông Phùng Quang Thanh sau nhiều đồn đoán xôn xao trên các trang web phi chính thống. Cũng theo các nguồn tin này, khối u của ông Thanh không phải ung thư, và kết quả sau phẫu thuật là rất khả quan.

Sau 20 ngày, thông tấn xã Đức đăng tin ông Thanh qua đời.

Chuỗi các sự kiện diễn ra rất gần nhau, khiến người ta không thể không liên tưởng đến những yếu tố bất thường.

Ngày 19/06/2015, ông Thanh gặp mặt chính thức Bộ trưởng quốc phòng Pháp tại Paris. 11 ngày sau đó, tức ngày 30/06/2015, ông được thông báo đã phẫu thuật khối u phổi tại một bệnh viện Pháp. Là một nhân vật trọng yếu trong Bộ chính trị Việt Nam, việc ông Thanh qua Pháp trị bệnh chắc chắn phải là kết quả của một quá trình thu xếp lâu dài, chứ không thể là một quyết định đột ngột. Việc ông có chuyến công du chính thức gặp người đồng cấp tại Paris, với một dáng vẻ rất khỏe mạnh, rồi nhập viện phẫu thuật 11 ngày sau đó, khiến có nhiều đồn đoán đáng ngờ.

Điểm lại con đường hoạn lộ của Đại Tướng Phùng Quang Thanh, có thể nói cuộc đời binh nghiệp của ông dường như được xếp sẵn để leo lên vị trí cao nhất. Thành tích chói sáng trong cuộc đời ông, là việc được phong anh hùng lực lượng vũ trang vào năm 1971 sau nhiều thành tích trong chiến đấu. Ông tiếp tục phục vụ trong quân đội, được cử đi đào tạo nhiều khóa nâng cao, và liên tục được phong hàm trong suốt quá trình tại ngũ. Năm 2006, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Năm 2007, ông leo lên đến đỉnh cao nhất của hệ thống phong hàm Việt Nam với hàm Đại tướng. Kể từ đó đến nay, ông Thanh đã giữ vị trí Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng được hơn 9 năm. Là một nhân vật trọng yếu nắm trong tay Bộ Quốc Phòng, ông có chân trong cơ quan quyền lực nhất của Việt Nam: Ủy viên Bộ Chính Trị. Có nhiều đồn đoán, sự nghiệp của ông sẽ còn lên cao nữa trong đại hội 2016 vào năm sau, nhiều khả năng ông sẽ nắm cương vị Chủ tịch nước, với quyền Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nếu xảy ra chiến tranh.

Một sự nghiệp bằng phẳng và chói sáng, nếu nó không có một vết nhơ. Theo nhiều thông tin phi chính thống được loan tải trên mạng, thì con trai của ông Thanh là Phùng Quang Hải, một quân nhân chen ngang, gia nhập quân đội chỉ vài năm và được phong quân hàm đại tá, nắm trong tay một Tổng công ty lớn của quân đội với vô số dự án đặc quyền. Ông Phùng Quang Hải được cho là sở hữu khối tài sản lên tới nhiều trăm tỷ. Không có tin phản bác chính thức nào được đưa ra, nhưng độ xác thực của các thông tin trên mạng khiến hầu hết người dân đều tin chúng là thật, khi nguồn tin cung cấp chụp rõ từng ngôi nhà, từng sổ đỏ và từng hợp đồng mua bán sở hữu nhà đứng tên ông Phùng Quang Hải.

Tuy nhiên vết đen lớn nhất trong sự nghiệp chói lọi của Đại Tướng Phùng Quang Thanh, lại là từ những câu phát ngôn của ông với tư cách là người đứng đầu các lực lượng vũ trang Việt Nam về Trung Quốc. Năm 2014, tại Shangrila, ông dùng những từ miêu tả quan hệ mâu thuẫn gia đình để mô tả mâu thuẫn Việt Nam - Trung Hoa. Tại hội nghị này, Trung Quốc gánh chịu những lời chỉ trích quyết liệt về các hành động xâm lấn lãnh thổ từ các nước tham dự hội nghị, trong đó Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng lớn nhất và trực tiếp nhất. Đặc biệt khi trước đó chỉ ít tuần, Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào hoạt động sâu trong vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, dẫn đến cuộc đối đầu kéo dài hơn 71 ngày của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam với các lực lượng hải quân Trung Quốc. Lời tuyên bố của ông Thanh có lẽ không có vấn đề gì lắm nếu ông ta là Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, vốn là một nơi nghệ thuật ngôn từ được áp dụng nhiều hơn trong các quan hệ quốc tế. Là Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, ông Thanh được chờ đợi sẽ gửi những thông điệp mang tính dứt khoát, rõ ràng về quan điểm của Việt nam đối với các quyền lợi quốc gia. Ông ta đã không làm điều đó.

Ngày 29/12/2014, tại hội nghị chính phủ về việc triển khai nghị quyết Quốc hội về các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2015, Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Phùng Quang Thanh khiến dư luận gần như bật ngửa với lời phát biểu: "Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc". Lời phát ngôn của người đứng đầu lực lượng vũ trang khiến nhiều người Việt Nam thấy rất "tâm tư", nhưng không giống với sự "tâm tư" của ông Phùng Quang Thanh. Hầu hết người Việt nam đều biết những gì đã diễn ra trong hệ thống tuyên truyền trong 30 năm qua. Cuộc chiến năm 1979 hầu như không được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông kể từ năm 1990 cho đến mãi tận gần đây. Trước năm 2007, thậm chí việc tàu đánh cá Việt Nam liên tục bị cướp bóc và tông chìm bởi tàu Trung Quốc vẫn chỉ được nhắc đến với mật danh đã thành kinh điển: Tàu lạ". Có thể nói hệ thống tuyên truyền Việt Nam đã cố hết sức để làm người Việt Nam không ghét Trung Quốc, kể cả với việc bưng bít thông tin và ém nhẹm các nguy cơ về an ninh quốc gia. Tuy nhiên sự phổ biến của Internet và đặc biệt là dã tâm không ngừng nghỉ của Trung Quốc đã làm nỗ lực ấy của cả hệ thống tuyên truyền Việt Nam đổ sông đổ biển. Các hình ảnh ngư dân Việt nam bị cướp bóc được lan truyền khắp hệ thống mạng, đặc biệt là đoạn Clip quay cảnh tàu chấp pháp Trung Quốc rượt đuổi và đè bẹp tàu cá Việt Nam được đăng tải trên mạng khiến dư luận bàng hoàng về những gì đang diễn ra ở Biển Đông. Sự việc lên đến cao trào khi Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào lãnh hải Việt nam ngang nhiên khoan thăm dò. Trong cùng thời gian, Trung Quốc bồi lấp 7 đảo nhân tạo với kích cỡ khổng lồ tại khu vực Trường Sa. Là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, với hệ thống tin tình báo quốc phòng trong tay, ông Thanh biết những điều đó trước bất cứ ai. Nhưng riêng ông vẫn thấy "tâm tư và lo lắng" không hiểu tại sao người Việt Nam cứ ghét Trung Quốc. Trong bối cảnh quyền lợi quốc gia đang bị đe dọa sống còn, sự "tâm tư" ấy của Bộ Trường Bộ Quốc Phòng khiến nhiều người Việt Nam "tâm tư", nhưng theo một cách hoàn toàn khác.

Việc ông Nguyễn Phú Trọng có chuyến thăm và hội đàm chính thức với Tổng thống Obama ngày 08/07/2015 gây một cơn bão truyền thông cả trong và ngoài nước. Ảnh hưởng của nó lớn đến nỗi có một tờ báo Trung Quốc đăng tin về sự thất thế của "phe thân Trung Quốc" trong hệ thống chính trị Việt Nam. Cũng theo tờ báo Trung Quốc này, thì phe thân Trung Quốc ấy có tên đích danh của ông Phùng Quang Thanh. Dù sao thì đây là một tờ báo thuộc nước lạ. Chúng ta không nên tin theo những lập luận được đài địch nêu ra :) Anh Lãng không bình luận về sự thật của nội dung này. Anh rất "tâm tư".

Cũng trong thời gian ngắn ngủi vài tuần ông Thanh trị bệnh, một loạt vị trí trọng yếu của Bộ Quốc Phòng có sự thay đổi, trong đó có vị trí Tư lệnh và Chính ủy Quân khu thủ đô, đồng loạt được thay thế trong cùng thời điểm. Đây là những vị trí rất trọng yếu, nắm quyền bảo đảm an ninh cho hệ thống chính trị Việt Nam, nói cách khác là ngoài nghĩa vụ chống ngoại xâm, thì đây là lực lượng chống đảo chính trọng yếu khi trấn giữ sự an toàn cho trung tâm đầu não chính trị của Việt nam. Những sự thay đổi đột ngột này, đặc biệt khi gắn với sự biến mất của ông Thanh, càng khiến có nhiều đồn đoán.

Nếu thông tin về cái chết của ông Thanh là sự thực, thì một lần nữa cho thấy sức mạnh của hệ thống thông tin phi chính thống khi những đồn đoán đã được đưa ra từ nhiều tuần trước đó. Nó sẽ khiến nhà nước gặp khó khăn nhiều hơn khi sự tin tưởng của dân chúng vào những nguồn tin phi chính thức ngày càng vượt trội hệ thống báo chí được nhà nước kiểm soát. Mặt khác, sự ra đi của ông Thanh sẽ làm thay đổi cơ bản tương quan lực lượng trong hệ thống chính trị Việt Nam.

Dù sao thì trong 9 năm làm ông Thanh làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, Việt Nam vẫn cần mẫn và chịu khó mua sắm vũ khí hàng năm. Tất nhiên cần phải hiểu rằng, chính sách quốc phòng mua sắm trang bị để phòng thủ của Việt Nam luôn nhất quán kể từ năm 1990 đến nay, qua rất nhiều đời Tổng Bí Thư, Thủ Tướng và Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Do đó không thể nói ông Thanh là người thúc đẩy chu trình ấy. Ngoài ra, cơ chế quyết định của Bộ Chính Trị Việt Nam, cơ quan quyền lực tối cao, là một cơ chế mang tính tập thể. Thành ra thực sự ông Thanh nghĩ gì trong đầu thì chỉ mình ông biết. Ông ra đi mang theo bí mật của riêng mình, giống như nhiều nhân vật cấp cao ở vị trí của ông.
Cát bụi trở về với cát bụi. Vài năm trước, một vị Đại Tướng Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng khác về với thời gian là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, có hàng chục vạn người đến viếng lễ tang ông một cách hoàn toàn tự nguyện. Từ đó đến nay, mộ ông Giáp có hàng vạn người đến viếng mỗi năm. Một dấu ấn không thể mờ phai cho những gì mà lịch sử và dân tộc ghi nhận cho cống hiến của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đối với nền độc lập quốc gia. Khi ông Giáp còn sống, ông chỉ là một người bị tước bỏ quyền lực trong nhiều chục năm, còn ông Thanh đang nắm trong tay mọi quyền hành của một ủy viên bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Ông Giáp chỉ có trong tay sự kính trọng còn ông Thanh nắm trong tay quyền lực. Giờ đây ông Thanh ra đi khi còn đương chức. Lịch sử và dân tộc sẽ có đánh giá gì cho ông về những điều ông đã làm cho đất nước này? Những nhân vật chính trị còn đương chức khác, giờ có một dịp may để quan sát và chứng kiến sự khác biệt giữa hai sự ra đi. Trong một thiên Lãng luận bàn về di sản của "Đại Tướng Võ Nguyên Giáp", anh Lãng cũng từng phân tích về điều mà ông Giáp tác động đến lịch sử ngay cả khi ông đã chết. Những quan chức cấp cao Việt Nam, một lúc nào đó, chính họ sẽ phải đặt câu hỏi rồi chuyện gì sẽ diễn ra khi đến lượt mình?

Một nén nhang dành cho ông Thanh, như một đạo lý truyền thống của người Việt nam. Chết là hết, chỉ hy vọng rằng mỗi sự ra đi đều sẽ mang trong nó những thông điệp để lại với lịch sử và hậu thế.


/S: Khi post note này, anh Lãng lét mắt thấy Vietnamnet đăng tin phản bác tin tức của DPA, nói ông Thanh vẫn còn khỏe mạnh và DPA loan tin vịt. Nếu quả vậy thì mừng cho ông Thanh và gia quyến. Ngược lại, Thông tấn xã DPA của Đức cần phải "rút kinh nghiệm nghiêm túc và sâu sắc" đối với sai lầm rất nghiêm trọng này :). DPA là một hãng thông tin uy tín, mà giờ lại phạm sai lầm kiểu này rất là đéo được. Anh Lãng giữ nguyên note này, vì nhiều nội dung phân tích gắn với các sự kiện chính trị chứ không phải chỉ với thông tin về cái chết của ông Thanh.
Sáng nay anh Lãng lét mắt đọc trang tin tiếng anh của DPA, trang tin chính thức của Cộng Hòa Liên Bang Đức, thì thấy một tin rất giật mình: "http://www.dpa-international.com/news/asia/vietnam-defence-minister-dies..."
Theo trang thông tin này, thì Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã qua đời vào ngày chủ nhật 19/07/2015 tại một bệnh viện của Pháp, sau một thời gian điều trị căn bệnh ung thư phổi ở đây.
Điểm lại các sự kiện liên quan, thì hoạt động gần nhất của Đại tướng Phùng Quang Thanh là cuộc gặp với Bộ trưởng quốc phòng Pháp vào ngày 19/06/2015. Khi đó, trông ông còn rất khỏe mạnh:

Ông Thanh gặp mặt chính thức Bộ trưởng quốc phòng Pháp tại Paris
Ngày 02/07/2015, nhiều tờ báo trong nước loan tin, ngày 30/06/2015, ông Phùng Quang Thanh đã được phẫu thuật khối u tại một bệnh viện của Pháp, dẫn nguồn từ Ban bảo vệ sức khỏe Trung Ương. Đây là tin tức chính thống duy nhất về ông Phùng Quang Thanh sau nhiều đồn đoán xôn xao trên các trang web phi chính thống. Cũng theo các nguồn tin này, khối u của ông Thanh không phải ung thư, và kết quả sau phẫu thuật là rất khả quan.
Sau 20 ngày, thông tấn xã Đức đăng tin ông Thanh qua đời.
Chuỗi các sự kiện diễn ra rất gần nhau, khiến người ta không thể không liên tưởng đến những yếu tố bất thường.
Ngày 19/06/2015, ông Thanh gặp mặt chính thức Bộ trưởng quốc phòng Pháp tại Paris. 11 ngày sau đó, tức ngày 30/06/2015, ông được thông báo đã phẫu thuật khối u phổi tại một bệnh viện Pháp. Là một nhân vật trọng yếu trong Bộ chính trị Việt Nam, việc ông Thanh qua Pháp trị bệnh chắc chắn phải là kết quả của một quá trình thu xếp lâu dài, chứ không thể là một quyết định đột ngột. Việc ông có chuyến công du chính thức gặp người đồng cấp tại Paris, với một dáng vẻ rất khỏe mạnh, rồi nhập viện phẫu thuật 11 ngày sau đó, khiến có nhiều đồn đoán đáng ngờ.
Điểm lại con đường hoạn lộ của Đại Tướng Phùng Quang Thanh, có thể nói cuộc đời binh nghiệp của ông dường như được xếp sẵn để leo lên vị trí cao nhất. Thành tích chói sáng trong cuộc đời ông, là việc được phong anh hùng lực lượng vũ trang vào năm 1971 sau nhiều thành tích trong chiến đấu. Ông tiếp tục phục vụ trong quân đội, được cử đi đào tạo nhiều khóa nâng cao, và liên tục được phong hàm trong suốt quá trình tại ngũ. Năm 2006, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Năm 2007, ông leo lên đến đỉnh cao nhất của hệ thống phong hàm Việt Nam với hàm Đại tướng. Kể từ đó đến nay, ông Thanh đã giữ vị trí Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng được hơn 9 năm. Là một nhân vật trọng yếu nắm trong tay Bộ Quốc Phòng, ông có chân trong cơ quan quyền lực nhất của Việt Nam: Ủy viên Bộ Chính Trị. Có nhiều đồn đoán, sự nghiệp của ông sẽ còn lên cao nữa trong đại hội 2016 vào năm sau, nhiều khả năng ông sẽ nắm cương vị Chủ tịch nước, với quyền Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nếu xảy ra chiến tranh.
Một sự nghiệp bằng phẳng và chói sáng, nếu nó không có một vết nhơ. Theo nhiều thông tin phi chính thống được loan tải trên mạng, thì con trai của ông Thanh là Phùng Quang Hải, một quân nhân chen ngang, gia nhập quân đội chỉ vài năm và được phong quân hàm đại tá, nắm trong tay một Tổng công ty lớn của quân đội với vô số dự án đặc quyền. Ông Phùng Quang Hải được cho là sở hữu khối tài sản lên tới nhiều trăm tỷ. Không có tin phản bác chính thức nào được đưa ra, nhưng độ xác thực của các thông tin trên mạng khiến hầu hết người dân đều tin chúng là thật, khi nguồn tin cung cấp chụp rõ từng ngôi nhà, từng sổ đỏ và từng hợp đồng mua bán sở hữu nhà đứng tên ông Phùng Quang Hải.
Tuy nhiên vết đen lớn nhất trong sự nghiệp chói lọi của Đại Tướng Phùng Quang Thanh, lại là từ những câu phát ngôn của ông với tư cách là người đứng đầu các lực lượng vũ trang Việt Nam về Trung Quốc. Năm 2014, tại Shangrila, ông dùng những từ miêu tả quan hệ mâu thuẫn gia đình để mô tả mâu thuẫn Việt Nam - Trung Hoa. Tại hội nghị này, Trung Quốc gánh chịu những lời chỉ trích quyết liệt về các hành động xâm lấn lãnh thổ từ các nước tham dự hội nghị, trong đó Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng lớn nhất và trực tiếp nhất. Đặc biệt khi trước đó chỉ ít tuần, Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào hoạt động sâu trong vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, dẫn đến cuộc đối đầu kéo dài hơn 71 ngày của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam với các lực lượng hải quân Trung Quốc. Lời tuyên bố của ông Thanh có lẽ không có vấn đề gì lắm nếu ông ta là Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, vốn là một nơi nghệ thuật ngôn từ được áp dụng nhiều hơn trong các quan hệ quốc tế. Là Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, ông Thanh được chờ đợi sẽ gửi những thông điệp mang tính dứt khoát, rõ ràng về quan điểm của Việt nam đối với các quyền lợi quốc gia. Ông ta đã không làm điều đó.
Ngày 29/12/2014, tại hội nghị chính phủ về việc triển khai nghị quyết Quốc hội về các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2015, Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Phùng Quang Thanh khiến dư luận gần như bật ngửa với lời phát biểu: "Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc". Lời phát ngôn của người đứng đầu lực lượng vũ trang khiến nhiều người Việt Nam thấy rất "tâm tư", nhưng không giống với sự "tâm tư" của ông Phùng Quang Thanh. Hầu hết người Việt nam đều biết những gì đã diễn ra trong hệ thống tuyên truyền trong 30 năm qua. Cuộc chiến năm 1979 hầu như không được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông kể từ năm 1990 cho đến mãi tận gần đây. Trước năm 2007, thậm chí việc tàu đánh cá Việt Nam liên tục bị cướp bóc và tông chìm bởi tàu Trung Quốc vẫn chỉ được nhắc đến với mật danh đã thành kinh điển: Tàu lạ". Có thể nói hệ thống tuyên truyền Việt Nam đã cố hết sức để làm người Việt Nam không ghét Trung Quốc, kể cả với việc bưng bít thông tin và ém nhẹm các nguy cơ về an ninh quốc gia. Tuy nhiên sự phổ biến của Internet và đặc biệt là dã tâm không ngừng nghỉ của Trung Quốc đã làm nỗ lực ấy của cả hệ thống tuyên truyền Việt Nam đổ sông đổ biển. Các hình ảnh ngư dân Việt nam bị cướp bóc được lan truyền khắp hệ thống mạng, đặc biệt là đoạn Clip quay cảnh tàu chấp pháp Trung Quốc rượt đuổi và đè bẹp tàu cá Việt Nam được đăng tải trên mạng khiến dư luận bàng hoàng về những gì đang diễn ra ở Biển Đông. Sự việc lên đến cao trào khi Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào lãnh hải Việt nam ngang nhiên khoan thăm dò. Trong cùng thời gian, Trung Quốc bồi lấp 7 đảo nhân tạo với kích cỡ khổng lồ tại khu vực Trường Sa. Là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, với hệ thống tin tình báo quốc phòng trong tay, ông Thanh biết những điều đó trước bất cứ ai. Nhưng riêng ông vẫn thấy "tâm tư và lo lắng" không hiểu tại sao người Việt Nam cứ ghét Trung Quốc. Trong bối cảnh quyền lợi quốc gia đang bị đe dọa sống còn, sự "tâm tư" ấy của Bộ Trường Bộ Quốc Phòng khiến nhiều người Việt Nam "tâm tư", nhưng theo một cách hoàn toàn khác.
Việc ông Nguyễn Phú Trọng có chuyến thăm và hội đàm chính thức với Tổng thống Obama ngày 08/07/2015 gây một cơn bão truyền thông cả trong và ngoài nước. Ảnh hưởng của nó lớn đến nỗi có một tờ báo Trung Quốc đăng tin về sự thất thế của "phe thân Trung Quốc" trong hệ thống chính trị Việt Nam. Cũng theo tờ báo Trung Quốc này, thì phe thân Trung Quốc ấy có tên đích danh của ông Phùng Quang Thanh. Dù sao thì đây là một tờ báo thuộc nước lạ. Chúng ta không nên tin theo những lập luận được đài địch nêu ra :) Anh Lãng không bình luận về sự thật của nội dung này. Anh rất "tâm tư".
Cũng trong thời gian ngắn ngủi vài tuần ông Thanh trị bệnh, một loạt vị trí trọng yếu của Bộ Quốc Phòng có sự thay đổi, trong đó có vị trí Tư lệnh và Chính ủy Quân khu thủ đô, đồng loạt được thay thế trong cùng thời điểm. Đây là những vị trí rất trọng yếu, nắm quyền bảo đảm an ninh cho hệ thống chính trị Việt Nam, nói cách khác là ngoài nghĩa vụ chống ngoại xâm, thì đây là lực lượng chống đảo chính trọng yếu khi trấn giữ sự an toàn cho trung tâm đầu não chính trị của Việt nam. Những sự thay đổi đột ngột này, đặc biệt khi gắn với sự biến mất của ông Thanh, càng khiến có nhiều đồn đoán.
Nếu thông tin về cái chết của ông Thanh là sự thực, thì một lần nữa cho thấy sức mạnh của hệ thống thông tin phi chính thống khi những đồn đoán đã được đưa ra từ nhiều tuần trước đó. Nó sẽ khiến nhà nước gặp khó khăn nhiều hơn khi sự tin tưởng của dân chúng vào những nguồn tin phi chính thức ngày càng vượt trội hệ thống báo chí được nhà nước kiểm soát. Mặt khác, sự ra đi của ông Thanh sẽ làm thay đổi cơ bản tương quan lực lượng trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Dù sao thì trong 9 năm làm ông Thanh làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, Việt Nam vẫn cần mẫn và chịu khó mua sắm vũ khí hàng năm. Tất nhiên cần phải hiểu rằng, chính sách quốc phòng mua sắm trang bị để phòng thủ của Việt Nam luôn nhất quán kể từ năm 1990 đến nay, qua rất nhiều đời Tổng Bí Thư, Thủ Tướng và Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Do đó không thể nói ông Thanh là người thúc đẩy chu trình ấy. Ngoài ra, cơ chế quyết định của Bộ Chính Trị Việt Nam, cơ quan quyền lực tối cao, là một cơ chế mang tính tập thể. Thành ra thực sự ông Thanh nghĩ gì trong đầu thì chỉ mình ông biết. Ông ra đi mang theo bí mật của riêng mình, giống như nhiều nhân vật cấp cao ở vị trí của ông.
Cát bụi trở về với cát bụi. Vài năm trước, một vị Đại Tướng Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng khác về với thời gian là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, có hàng chục vạn người đến viếng lễ tang ông một cách hoàn toàn tự nguyện. Từ đó đến nay, mộ ông Giáp có hàng vạn người đến viếng mỗi năm. Một dấu ấn không thể mờ phai cho những gì mà lịch sử và dân tộc ghi nhận cho cống hiến của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đối với nền độc lập quốc gia. Khi ông Giáp còn sống, ông chỉ là một người bị tước bỏ quyền lực trong nhiều chục năm, còn ông Thanh đang nắm trong tay mọi quyền hành của một ủy viên bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Ông Giáp chỉ có trong tay sự kính trọng còn ông Thanh nắm trong tay quyền lực. Giờ đây ông Thanh ra đi khi còn đương chức. Lịch sử và dân tộc sẽ có đánh giá gì cho ông về những điều ông đã làm cho đất nước này? Những nhân vật chính trị còn đương chức khác, giờ có một dịp may để quan sát và chứng kiến sự khác biệt giữa hai sự ra đi. Trong một thiên Lãng luận bàn về di sản của "Đại Tướng Võ Nguyên Giáp", anh Lãng cũng từng phân tích về điều mà ông Giáp tác động đến lịch sử ngay cả khi ông đã chết. Những quan chức cấp cao Việt Nam, một lúc nào đó, chính họ sẽ phải đặt câu hỏi rồi chuyện gì sẽ diễn ra khi đến lượt mình?
Một nén nhang dành cho ông Thanh, như một đạo lý truyền thống của người Việt nam. Chết là hết, chỉ hy vọng rằng mỗi sự ra đi đều sẽ mang trong nó những thông điệp để lại với lịch sử và hậu thế.
- See more at: https://www.danluan.org/tin-tuc/20150720/lang-su-ra-di-cua-mot-tam-tu#sthash.IEnKIwY3.dpuf

Thứ Năm, 16 tháng 7, 2015

Cambodia, lá bài cũ và câu chuyện mới của người Trung Quốc

Những ngày gần đây, báo chí thế giới và Việt Nam lác đác có những thông tin nhắc đến những mâu thuẫn lẻ tẻ nổ ra tại biên giới Việt Nam - Campuchia. Đây không phải là một câu chuyện mới mà đã bắt nguồn từ lâu trong quá khứ.

Những tranh cãi giữa Việt Nam và Campuchia về phần lãnh thổ ngày nay được gọi là đồng bằng sông Cửu Long (Lãnh thổ chính thức thuộc Việt Nam hiện đại) và Campuchia khmer krom (theo cách diễn giải của người Campuchia) từng kéo dài trong nhiều thế kỷ. Về mặt lịch sử, đây là vùng đất hoang vu gần như không người ở cho đến khi những đoàn khai hoang đầu tiên của người Việt và người Minh hương (người Trung Quốc bại trận dưới triều Minh chạy sang Việt Nam lánh nạn và xin thần phục triều đình nhà Nguyễn) khai phá. Bằng nỗ lực trong nhiều thế kỷ, họ biến một vùng đất hoang vu, sình lầy thành một khu vực đông đúc và giàu có. Vùng đất này, được gọi là Nam Kỳ theo cách định danh chính thức của vua Minh Mạng vào năm 1832. Với sự kiểm soát trên thực tế trong nhiều thế kỷ, đây là vùng lãnh thổ được công nhận thuộc về Việt Nam theo mọi hiệp ước và bản đồ quốc tế hiện đại.

Năm 1859, Pháp bắt đầu công cuộc xâm lược Việt Nam. Do lợi thế vượt trội về nền văn minh, đến năm 1867, Pháp chính thức chiếm trọn toàn bộ lãnh thổ Nam Kỳ gồm 6 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên (Tên gọi cũ chính thức của Nam kỳ lục tỉnh). Biên giới chính thức giữa Nam kỳ và Campuchia được xác lập lần đầu tiên theo thỏa ước ký kết giữa Thống đốc Nam kỳ và Vua Norodom I vào ngày 09/07/1870. Sau đó ba nặm một hiệp ước khác được ký bổ sung vào ngày 15/08/1873. Nếu đối chiếu với bản đồ Đại Nam năm 1829, một số vùng đất thuộc Tây Ninh, Châu Đốc và Hà tiên của Việt Nam đã bị cắt về Cao Miên. Tuy nhiên, những hiệp ước này là những hiệp ước chính thức đầu tiên phân định ranh giới giữa Việt Nam và Campuchia. Biên giới hiện đại giữa hai nước ngày nay về cơ bản cũng được xác lập trên cơ sở của các hiệp ước này.

Tham vọng của Campuchia với vùng đất mà họ gọi là Khmer Krom chưa bao giờ tắt trong nhiều thế kỷ, bất chấp các hiệp ước quốc tế và hiện đại được các vương triều và chính quyền Campuchia nối nhau ký kết. Tuy nhiên, theo nhiều nghiên cứu quốc tế, xét cả về mặt lịch sử và thực tế, Campuchia chưa bao giờ kiểm soát Nam kỳ, dù là dưới vương triều cực thịnh nhất của họ vào thời đế quốc Angkor từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 12. Tuy nhiên, vấn đề Campuchia Krom luôn được nêu ra mỗi khi có một thế lực chính trị muốn tranh thủ tình cảm dân tộc cực đoan của người Campuchia. Thế lực gần nhất và khét tiếng nhất đối với yêu sách này, chính là Pon pot.

Không dựa trên bất cứ một bằng chứng lịch sử hoặc thỏa ước quốc tế nào, Pon pot chỉ đơn giản tuyên bố: "Bất cứ nơi nào có cây thốt nốt mọc, đó là đất của Campuchia". Cây thốt nốt mọc nhiều ở Cam, ở Thái cũng như ở Việt Nam. Yêu sách của Pon pot, tuy nhiên chỉ hướng tới Việt Nam. Bởi đơn giản, đó là một lá bài trong canh bạc được chơi bởi người Trung Quốc.

Chế độ Pon Pot là một trong những chế độ cai trị cực đoan nhất trong lịch sử hiện đại. Độ tàn ác của nó vượt gấp nhiều lần công cuộc kỳ thị do thái của Hitler. Nhà nước hồi giáo khét tiếng tàn bạo IS hiện nay nếu so với Pon Pot thì vẫn phải gọi Pon Pot là đại sư phụ. Hitler giết dân do thái, IS khủng bố những người Hồi Giáo tại Iraq hay Syris. Riêng Pon pot, diệt chủng chính dân tộc mình bằng những biện pháp cực kỳ tàn bạo.

Pon pot luôn tự nhận là người đại diện cho quyền lợi của Campuchia, tuy nhiên trên thực tế, ông ta là một người Campuchia gốc Hoa. Sau khi thâu tóm được quyền lực do làn sóng chiến tranh giải phóng dân tộc ở Đông Dương do Việt Nam làm nòng cốt và sự thoái lui của Mỹ, Pon pot thiết lập sự kiểm soát trên toàn lãnh thổ Campuchia từ ngày 17/04/1975. Trong vòng 4 năm, từ 1975 - 1978, theo mọi nghiên cứu quốc tế, Pon pot tàn sát từ 1,5 đến 2,3 triệu người Campuchia trên tổng dân số 8 triệu người. Nhiều nghiên cứu mới nhất thống nhất ở con số 1,7 triệu người Campuchia bị giết hại dưới thời Pon pot, tương ứng với 26% tổng dân số Campuchia. Nếu chế độ này tồn tại được thêm ít năm, với tốc độ giết hại như vậy, dân tộc Campuchia có lẽ chỉ còn tồn tại trong sách vở.

Như một cách để tập hợp dân chúng, Pon pot tìm cách gây chiến với Việt Nam. Về mặt đối nội, là để khơi gợi tình cảm dân tộc cực đoan của người Campuchia, để xao lãng và xoa dịu người Campuchia trước chính sách cai trị tàn bạo diệt chủng của chế độ Pon pot. Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách hung hăng của Pon pot với Việt Nam nằm dưới sự thúc đẩy trực tiếp của Trung Quốc, nước duy nhất hậu thuẫn cho chế độ Pon Pot, viện trợ hầu hết vũ khí và trang bị cho thế lực này, cùng với sự hiện diện của hàng chục nghìn cố vấn trên khắp lãnh thổ Campuchia.

Bắt nguồn sâu xa của sự kiện, là chính sách bành trướng nhất quán của Trung Quốc trải dài suốt quá trình lịch sử. Là một đất nước có truyền thống hung hăng và máu xâm lược thâm căn cố đế, chính sách xuyên suốt của mọi triều đại Trung Hoa, là luôn muốn làm suy yếu, kiểm soát và nếu được thì thôn tính các quốc gia láng giềng với nó. Công cuộc thôn tính của các triều đại Trung Quốc khá thành công. Nó thành công sát nhập Mãn Thanh, Nội Mông, Tây Tạng, Đại lý, nhiều vùng đất thuộc Bách Việt và Nam Việt cũ trong suốt quá trình xâm lược nối tiếp nhau trong nhiều thế kỷ. Duy nhất có một vùng đất, cuộc xâm lược của Trung Quốc bị chặn lại, là miền Giao Chỉ vốn là nơi phát tích của nước Việt Nam hiện đại. Nhiều thế hệ nối tiếp người Việt nỗ lực đánh trả các cuộc xâm lăng của các triều đại Hán, Đường, Tống, Minh, Nguyên, Thanh và nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa hiện đại. Đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, được xác lập về cơ bản dưới triều đại nhà Lý và giữ được tính ổn định gần như bất biến trong suốt 11 thế kỷ. Ngày nay, đường biên này đã được xác lập chính thức theo hiệp định phân giới Việt Nam - Trung Hoa. Với hơn 1065 km biên giới đất liền và 383 km biên giới mặt nước. Biên giới Việt Trung được xác lập bởi một hệ thống cột mốc dày đặc, tới 1378 cột mốc biên giới, một minh chứng hùng hồn cho thấy sự "hữu hảo" và "tin cậy" giữa hai quốc gia. Đây là đường biên có mật độ cột mốc dày đặc nhất so với mọi đường biên giới quốc gia trên thế giới. Không có gì ngạc nhiên vì người Việt từng gánh chịu ít nhất 13 cuộc chiến xâm lược nối tiếp từ các triều đại cai kỵ Trung Quốc, trải dài từ thời phong kiến đến thời hiện đại.

Chính sách của chính quyền Trung Quốc hiện nay với Việt Nam không khác gì chính sách của họ với Triều Tiên. Trung Quốc luôn tìm cách phân rẽ các nước cứng đầu giáp giới với họ, nhằm làm suy yếu các quốc gia này, để phụ thuộc hoàn toàn và nếu có điều kiện thì thôn tính sát nhập. Trung Quốc thành công ở Triều Tiên, khiến đất nước này bị cắt làm đôi kể từ năm 1952. Ngày nay, Hàn Quốc (Nam Triều Tiên) là một đất nước giàu mạnh hàng đầu thế giới, sánh vai với thế giới văn minh, riêng phần Bắc Triều Tiên chịu sự kiểm soát và thao túng trực tiếp của Trung Quốc, là một quốc gia nằm ở đáy của đói nghèo, luôn phải chìa tay xin viện trợ lương thực hàng năm, nhưng thường xuyên hung hăng hô hào chiến tranh với Nhật Bản, Hàn Quốc và với Mỹ. Trung Quốc cũng tìm cách áp đặt thực tế này với Việt Nam. Năm 1954, Trung Quốc thỏa thuận với các nước lớn tách đôi Việt Nam làm hai phần với ranh giới là vỹ tuyến 17. Trong nhiều năm sau đó, Trung Quốc viện trợ vũ khí cho Bắc Việt Nam để chống lại Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ, nhằm hai mục đích: Ngăn ngừa Việt Nam độc lập thống nhất và tránh việc để một chế độ thân thiện với Hoa Kỳ tiến tới sát lãnh thổ Trung Hoa. Cũng trong thời kỳ này, lợi dụng tình hình chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc tìm cách gặp nhấm dần từng vùng lãnh thổ của nước láng giềng, dù họ luôn hô hào mị dân là đồng minh của chính phủ do ông Hồ Chí Minh lập lên ở miền Bắc. Năm 1958, Trung Quốc chiếm đóng một nửa quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1974, lợi dụng tình hình chiến tranh Việt Nam đang ở thời kỳ cao điểm và Mỹ đã triệt thoái về nước sau hiệp định Paris năm 1972, Trung Quốc xua quân chiếm đóng nốt phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, quốc gia kiểm soát Hoàng Sa trên thực tế ở thời điểm đó đã có một nỗ lực kháng cự ngắn ngủi nhưng bất thành. Tuy nhiên, người Việt trên toàn thế giới lúc bấy giờ đã xuống đường biểu tình dữ dội để phản đối sự xâm lược của Trung Quốc.

Bằng những nỗ lực khôn ngoan và năng lực tác chiến cao, Bắc Việt Nam thành công thống nhất Nam Việt Nam, xác lập một nước Việt Nam thống nhất kể từ ngày 30/04/1975. Kết cục này không nằm trong chờ mong của Trung Quốc. Chính sách của Trung Quốc với chính phủ Cộng Sản Việt Nam, vốn được coi là đồng minh nhanh chóng thay đổi. Theo xu thế này, Pon pot được Trung Quốc hậu thuẫn nhằm làm một con bài quan trọng để suy yếu Việt Nam, bắt Việt Nam phải nghe lời và khuất phục trước các yêu sách thôn tính của người Trung Quốc.

Tàn bạo nhưng khờ khạo trong suy xét tình hình, Pon pot ảo tưởng rằng có thể chiến thắng Việt nam với sự hậu thuẫn của người Trung Quốc. Từ năm 1975 đến 1978, lính Khmer đỏ của Trung Quốc nhiều lần đột kích sang lãnh thổ Việt Nam, gây ra những vụ thảm sát tàn bạo tại Tây Ninh và An Giang (Riêng cuộc đột kích của Ponpot vào Tây Ninh ngày 25/09/1977, lính Khmer đỏ đốt phá 471 ngôi nhà và giết hại hơn 800 người Việt bằng những hình thức hết sức man rợ, mang tính đặc trưng của cách thức diệt chủng mà Ponpot tiến hành ở Campuchia). Dù các cuộc tấn công của Ponpot bị đánh thiệt hại nặng bởi các lực lượng thiện chiến của Việt Nam, nhưng với sự hà hơi của Trung Quốc trong nỗ lực làm suy yếu Việt Nam, Ponpot không từ bỏ dã tâm chiến tranh. Ngày 23/12/1978, quân đội chính quy Việt Nam tràn sang biên giới Campuchia, mở đầu cho việc giải phóng quốc gia này khỏi một trong những chế độ tàn bạo nhất lịch sử. Trong vòng 2 tuần, lính Việt Nam đánh đến thủ đô Phnompenh, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ diệt chủng Pon pot. Cùng với cuộc tiến quân của Việt Nam, người Campuchia sống sót thoát khỏi quá trình diệt chủng. Thế giới kinh hoàng khi chứng kiến sự xuất hiện của những cánh đồng chết trên khắp lãnh thổ Campuchia với hơn 1,7 triệu người bỏ mạng chỉ trong vài năm Pon pot nắm quyền.

Nhằm cứu nguy cho đàn em Pon Pot, tháng 02/1979 Trung Quốc xua 600 nghìn quân ồ ạt tiến đánh Việt Nam. Đối mặt với một đất nước thiện chiến vừa trải qua 30 năm chiến tranh giành độc lập kéo dài, Trung Quốc bị chặn lại ở biên giới phía Bắc và chịu tổn thất nặng. Sau ít ngày tiến công, Trung Quốc buộc phải tuyên bố đơn phương rút quân, thất bại cả trong mục đích xâm lược Việt Nam lẫn mục tiêu giải cứu cho Pon Pot. Tuy nhiên, Việt Nam phải gánh chịu một cuộc chiến tiêu hao kéo dài trong nhiều năm sau đó, ở cả biên giới phía Bắc và cuộc chiến tại Campuchia, nhằm giữ cho đất nước này thoát khỏi sự tái chiếm của Khmer đỏ.

Bước sang năm 2015, khi chính sách xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông chịu sự phản đối quyết liệt của các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam, lá bài cũ Campuchia được Trung Quốc vận dụng lại trong một câu chuyện mới. Bằng các khoản viện trợ và đầu tư hậu hĩnh, Trung Quốc từng bước nắn được chính sách ngoại giao Campuchia theo hướng có lợi cho mình. Là một nước không có tranh chấp ở Biển Đông, nhưng Campuchia nhiều lần có những tuyên bố nghiêng về đòi hỏi của Trung Quốc. Tháng 7/2015, gần như cùng thời điểm Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm chính thức Hoa Kỳ, hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama trong một cuộc gặp có tính lịch sử, có một vụ xung đột nhỏ nổ ra ở biên giới Việt Nam - Campuchia, một sự kiện rõ ràng không phải là tình cờ khi nhìn vào các bài học thực tiễn và lịch sử. Sau sự kiện đó ít ngày, 23 viên tướng Campuchia đồng loạt viếng thăm Trung Quốc, một sự kiện chưa có tiền lệ, gợi lên nhiều ký ức về câu chuyện năm 1978. Có thể nói, cùng với chính sách đối ngoại bảo vệ lãnh thổ ngày càng quyết đoán của Việt Nam, cùng với xu thế nhích lại không thể đảo ngược của quan hệ Việt Mỹ, lá bài Campuchia đang được Trung Quốc vận dụng lại trong chính sách kiểm soát và thôn tính khu vực của mình.

Dĩ nhiên người Campuchia không lạ gì dã tâm bành trướng của Trung Hoa, nhưng do không có biên giới giáp ranh với Trung Hoa, Campuchia cảm thấy an toàn tương đối và tận dụng lợi thế để gặt hái càng nhiều lợi ích từ Trung Quốc càng tốt. Chính sách này phù hợp với lợi ích quốc gia Campuchia, nhưng cũng có thể đẩy đất nước này vào vòng xoáy nguy hiểm. Thủ tướng Campuchia hiện nay, Hunsen, người đàn ông đã nắm quyền qua 3 thập kỷ, là một người từng được hậu thuẫn bởi Việt Nam. Tận mắt thấy Khmer đỏ bị quân đội Việt Nam đánh tan tác chỉ trong vòng 2 tuần, Hunsen và Campuchia hiểu cái giá của sự mạo hiểm nếu lặp lại sai lầm ngu suẩn của Pon pot. Trên thực tế, bất chấp các luận điệu ủng hộ (dù không quá công khai) tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, Campuchia luôn cố gắng duy trì quan hệ thân thiện với Việt Nam. Giữa Campuchia và Thái Lan từng có đụng độ chính thức tại biên giới khiến nhiều lính hai bên thiệt mạng, nhưng ở phần biên giới giáp ranh Việt Nam, hai nước đã ký kết nhiều hiệp định phân giới chính thức vào các năm 1983, 1985 và 2005 dựa trên nền tảng đường biên giới được hoạch định theo bản đồ Bonne được xác lập giữa ranh giới Nam kỳ, Trung kỳ và Campuchia trong quá khứ. Trên thực tế hai nước đã hoàn tất phân định 78% tổng chiều dài biên giới. Phần mốc giới còn lại vẫn đang được xúc tiến trong sự nỗ lực của cả hai bên.

Lá bài Campuchia đang được Trung Quốc tìm cách vận dụng lại trong một câu chuyện mới, nhưng vấn đề là Campuchia ngày nay, sau các bài học quá khứ và lịch sử, vẫn còn chưa quên 4 năm cai trị của Ponpot và hàng chục nghìn cố vấn Trung Hoa với cái chết của 26% dân số. Dù tình cảm yêu ghét đan xen, nhưng người Campuchia không quên thực tế chính Việt Nam đã cứu dân tộc họ thoát khỏi sự diệt chủng, và càng không quên thực tế về bước chiến thần tốc của quân đội Việt Nam, khi giải phóng hầu hết lãnh thổ Campuchia chỉ trong có vài tuần. Do đó, có thể nói lá bài Campuchia trong tay Trung Quốc ngày nay không có sức nặng như thời Ponpot.

Là một quốc gia đã thoát khỏi nạn diệt chủng và hòa nhập thế giới văn minh, Campuchia có những chính sách phục vụ lợi ích quốc gia của riêng mình. Một trong những lợi ích mang tính chiến lược của họ, là quan hệ hòa bình hợp tác với Việt Nam. Lính campuchia có thể chạm súng với lính Thái Lan, nhưng điều tương tự chưa bao giờ diễn ra ở phần biên giới chưa phân định Việt Cam. Người Campuchia hiểu việc xung đột với Việt Nam có thể dẫn đến hậu quả gì. Tuy nhiên, rõ ràng Campuchia không nề hà gì khi nghiêng về Trung Quốc ở Biển Đông, nơi họ chẳng có mảy may lợi ích, nhưng đổi lại có thể là các khoản đầu tư và viện trợ hậu hĩ từ Trung Quốc. Đây là một chính sách phù hợp với lợi ích quốc gia của Campuchia, dù nó khiến Việt Nam, philipin, malaysia và các quốc gia đang có mâu thuẫn với Trung Quốc ở Biển Đông không mấy dễ chịu.

Nhận thức rõ vấn đề này, có thể giúp Việt Nam tỉnh táo đánh giá tình hình và đặt lên bàn cân một cách chính xác chính sách đối ngoại của Campuchia trong quan hệ tay ba Việt - Trung - Cam. Chúng ta cần chấp nhận thực tế Campuchia cũng đang chơi bài theo cách riêng của mình để phục vụ lợi ích quốc gia của họ, nhưng đồng thời cũng phải thừa khôn ngoan để nhận định rằng bất kể Trung Quốc xúi giục ở mức nào, Campuchia cũng sẽ không dại dột gây căng thẳng biên giới với Việt nam, bởi họ có đủ bài học quá khứ và lịch sử.

Lá bài Campuchia, do đó có thể khiến Việt nam khó chịu đôi chút ở Biển Đông, nhưng cũng không làm thay đổi được thực tế vấn đề, bởi mọi tiêu chí về luật pháp quốc tế đều rất rõ ràng. Ngược lại, chính Campuchia sẽ phải định hình chính sách của mình, bởi mọi sự dịch chuyển lại gần quỹ đạo Trung Quốc, sẽ khiến họ bị kéo xa ra khỏi Asean và phần còn lại của thế giới văn minh. Campuchia cũng nhiều lần bày tỏ nguyện vọng tham gia TPP, nhưng danh sách 12 quốc gia đang đàm phán hiệp ước không có họ, và chắc hẳn cũng sẽ không có trong tương lai gần. Dù bài học Ponpot cũng đã lùi xa, nhưng thực trạng bi bét của các quốc gia nằm trong quỹ đạo Trung Hoa cũng là một thực tế mà người Cam không mấy lạ lùng. Ngay cả Myanmar, sau nhiều chục năm lệ thuộc chặt chẽ Trung Hoa, cũng đã nỗ lực tìm mọi cách thoát ra và đất nước này chỉ khởi sắc kể từ chính sách thoát Trung của Thanswe. Đó là một tấm gương rất gần gũi cho mọi quốc gia trong khu vực.

Năm 2015, Việt Nam đang bước vào một quỹ đạo phát triển mới với nhiều hứa hẹn và cả về những triển vọng an ninh, với sự hợp tác của nhiều quốc gia lớn trên thế giới. Triển vọng của Việt Nam khi hòa nhập với thế giới văn minh, chắc chắn cũng là điều mà người Campuchia mong muốn. Trung Quốc do đó chắc chắn sẽ thất bại nếu muốn dùng Campuchia kiềm chế Việt Nam như cách họ đã từng làm với chế độ Ponpot.

Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

Việt Nam - Hoa Kỳ và sự dịch chuyển quyền lực Á Châu

- Tháng 7 năm 2015, cuộc can thiệp của Hoa Kỳ tại Apghanistan bước sang năm thứ 15. Phần lớn quân đội Mỹ đã rút đi nhưng sự tồn tại của chính quyền do Mỹ và đồng minh dựng lên vẫn rất bấp bênh. Taliban có xu hướng trỗi dậy và sự khống chế của Mỹ đối với đất nước này ngày một giảm, kèm với đó là dấu hiệu hỗn loạn có chiều hướng lan tràn. Dù cuộc can thiệp của Mỹ ở Apghanistan được ghi mốc son với cái chết của Osama Binladen, nhưng khó có thể nói Mỹ gặt được lợi ích thực tiễn gì sau cuộc can thiệp tốn kém này.

- Sau 24 năm kể từ khi chiến dịch Bão táp sa mạc do tổng thống George H. Bush khởi xướng, nước Mỹ lần lượt tiến hành nhiều cuộc chiến tranh lớn tại Iraq cho tới khi chính quyền Saddam Hussein bị đánh bại hoàn toàn. Dấu ấn của Mỹ đối với cuộc chiến này được coi là thắng lợi với hình phạt tử hình dành cho Saddam và khoản chiến phí nhiều nghìn tỷ đổ vào đất nước Trung đông. Sau các biến cố thời cuộc, quân đội Mỹ rút hết về nước, để lại một Iraq trong loạn lạc và hoang tàn.

- Mùa xuân Ả rập bắt nguồn từ một phong trào đường phố năm 2011, do nhiều yếu tố xã hội, nhanh chóng trở thành một làn sóng quét qua hàng loạt quốc gia:Tunisia, Ai Cập, Yemen, Algeria, Jordan, Bahrain, Iran, Libya và nhiều nước khác. Lấy cảm hứng từ ước muốn thay đổi xã hội và ảnh hưởng từ các nước phương Tây, nhưng hầu hết các phong trào cách mạng này đều nhanh chóng thoái hóa dưới sự chi phối của các thế lực hồi giáo cực đoan. Đỉnh điểm của những cuộc cách mạng màu này là sự sụp đổ của tổng thống Ai cập Mumbarak và đặc biệt là cái chết của nhà độc tài Gaddafi của Libya khi đang chạy trốn. Sự kiểm soát của Mỹ đối với khu vực trở lên bấp bênh sau khi nhiều chính phủ do Mỹ tiếp sức trong nhiều năm nối nhau sụp đổ. Chính sách và cách tiếp cận của Mỹ đối với các chính phủ độc tài trên thế giới về sau này chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các cuộc cách mạng màu. Bài học rút ra về sau là thà đối thoại với một tay độc tài đốn mạt, còn hơn là đối mặt với một đám đông bạo loạn, mất kiểm soát và thường xuyên bị sâu xé bởi các làn sóng cực đoan. Cuộc cách mạng màu tại Trung cận đông cũng đánh dấu sự ra đời của một hiểm họa mới đối với thế giới: Hồi giáo cực đoan trỗi dậy trong sự suy yếu chính quyền của nhiều quốc gia trong hỗn loạn. Ảnh hưởng của nó đến thế giới là rất sâu sắc và đe dọa tới trật tự mới của thế giới trong ngưỡng cửa của năm 2015.

- Bốn năm trôi qua kể từ ngày 26/01/2011 tại Syria, đất nước này chìm vào làn sóng chiến tranh và bạo lực dưới sự tác động của ba thế lực: Mỹ và phương tây với các lợi ích trong khu vực, hậu thuẫn cho một lực lượng đối lập thường xuyên mâu thuẫn. Ở một phía khác là Nga và Iran, tìm mọi cách duy trì chính phủ độc tài thân thiện với họ do tổng thống Bashar Al_Assad đứng đầu. Và lực lượng còn lại là các thế lực hồi giáo cực đoan. Sự can thiệp của Mỹ tại Syria ít mạnh mẽ do sự can dự của Nga, cũng chính lò lửa này là tiền đề cho sự ra đời của nhà nước Hồi giáo cực đoan IS khét tiếng.

- Năm 2014 đánh dấu sự trở lại đầy hung hãn của nước Nga khi lần đầu tiên kể từ sau thế chiến thứ hai, đất nước này mở rộng lãnh thổ bằng việc sát nhập một lãnh thổ thuộc chủ quyền của nước khác sau một loạt biến cố chính trị và ngoại giao. Cuộc thôn tính của nước Nga ở Crimea được coi là một chiến dịch đặc biệt thành công về mặt chiến thuật, nhưng những hậu quả của nó đối với thế giới là rất lâu dài. Nước Nga có nhiều lý do để biện hộ cho mình khi quả thực họ bị Mỹ và phương tây chèn ép trong nhiều năm, với việc liên tục mở rộng biên giới Nato sang phía đông. Diễn biến tại Ucraine là một lò lửa hoang tàn, nền kinh tế hầu như bị hủy diệt. Đây là một minh chứng cho thấy sự thất bại của cả Nga và Phương tây trong việc tìm kiếm một sự phân bổ thế lực hòa bình. Nga xâm lược thành công Crimea nhưng rơi vào trạng thái cô lập và buộc phải quay sang bắt tay với mối họa tiềm ẩn lớn nhất của nó là Trung Quốc. Mỹ và phương tây thành công khi cô lập Nga và đẩy quốc gia này vào trạng thái khó khăn, nhưng gặp thất bại chiến lược khi đẩy Nga về phía Trung Quốc. Trên thực tế, đây là một kết quả thua thiệt đối với cả hai thế lực lớn thời hậu chiến tranh lạnh, duy nhất hưởng lợi chính là Trung Quốc. Hậu quả của nó đối với thế giới là rất lâu dài, cuộc xâm lược thành công không tiếng súng của Nga đã tạo cảm hứng cho Trung Quốc tại Hoa Đông và đặc biệt là Biển Đông. Bước tiến của Trung Quốc trở lên ngày một mạnh mẽ và cương quyết trong tham vọng thôn tính lãnh thổ và lãnh hải của các quốc gia yếu hơn lân cận.

- Cuộc khủng hoảng tài chính của Hy Lạp năm 2015 đã đến lúc bùng phát và hầu như vô phương cứu chữa. Sự quản lý yếu kém trong nhiều năm và việc vay mượn chi tiêu vô tội vạ đã khiến chỉnh phủ nước này phá sản, và lối thoát duy nhất là trông chờ vào sự cứu giúp của các nước thuộc Euro zone, vốn có sự kiên nhẫn đã gần về 0 khi không nhìn thấy một sự cải thiện nào tại Hy Lạp sau các gói giải cứu khổng lồ tốn kém tới hơn 300 tỷ euro. Việc Hy lạp được cứu hay buộc phải rời bỏ EU cũng hầu như chỉ dẫn tới một kết quả giống nhau: Cộng đồng kinh tế chung châu Âu bước vào một thời kỳ mới đầy khó khăn và chia rẽ. Với tư cách là một cộng đồng kinh tế lớn, văn minh và phát triển bậc nhất thế giới, sự suy yếu của khối này sẽ tạo nhiều khoảng trống quyền lực cho các thế lực khác đang vươn lên. Đây là một tin tốt đối với nước Nga hay Trung Quốc và là một tin buồn đối với nước Mỹ khi xét tới sức mạnh trong tương quan so sánh của các đồng minh.

- Năm 2014, theo một số thống kê bằng chỉ số sức mua tương đương PPP, Trung Quốc được cho là đã vượt Mỹ về mặt quy mô của nền kinh tế. Có nhiều tranh cãi về tính thực tế của cách tính ngày, nhưng việc nước Mỹ bị Trung Quốc bám đuổi sát nút đã là một thực tế không thế phủ nhận. Dù được dự báo sẽ lâm vào một thời kỳ trì trệ với nhiều bất ổn, nhưng tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc vẫn cao hơn Mỹ xét trên mọi khía cạnh. Sự xâm nhập kinh tế của Trung Quốc đối với thế giới đã trở thành một điều không thể ngăn chặn. Thặng dư kinh tế giúp Trung Quốc có nhiều nguồn lực đầu tư mạnh mẽ vào năng lực chiến tranh. Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tăng liên tục nhiều con số trong nhiều năm, vượt nhiều lần tốc độ tăng trưởng GDP. Sự đe dọa của Trung Quốc với Nhật Bản, Việt Nam, Ấn Độ, Philipin và nhiều quốc gia giáp giới của nó cũng ngày một mạnh mẽ hơn. Trong năm 2014, chiến hạm Trung Quốc ngày một vươn xa trên các đại dương, cùng với các đòi hỏi ngày một tham vọng hơn về lãnh thổ và lãnh hải.

Những xu thế liệt kê ở trên chính là những yếu tố khởi đầu cho một bức tranh mới về trật tự thế giới hiện đại. Cùng với sự suy yếu của quyền lực Mỹ sau nhiều ngày tháng huy hoàng, nhiều chiến lược gia của phương tây đang tự hỏi: Điều gì đang diễn ra, và vì đâu mà với nhiều lợi thế đạt được sau khi kết thúc chiến tranh lạnh những năm 1990, phương tây nhanh chóng suy yếu và bước sang sườn dốc phía bên kia của quyền lực?

Khởi đầu của bức tranh này, cần phải nhìn nhận lại những năm tháng mà Brzezinsky và Henry Kissinger còn làm mưa làm gió trên chính trường Hoa Kỳ những năm 80 của thế kỷ trước. Cố vấn an ninh quốc gia Brezinsky được coi là tác giả của bức tường cô lập Liên Xô khiến siêu cường khét tiếng một thời cuối cùng gục ngã vì những khó khăn đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Nhưng cũng chính Brzezinsky và Kissinger đã khởi đầu cho một xu thế sai lầm của phương tây trong nhiều thập niên: Cùng với việc cô lập Liên Xô, Mỹ và phần còn lại của thế giới chìa tay gần như vô điều kiện với Trung Quốc, tặng cho quốc gia này một làn sóng hậu thuẫn về vốn và công nghệ vượt bậc và những cơ hội thâm nhập thị trường với rất ít ràng buộc. Trong con mắt của các chiến lược gia phương Tây thời bấy giờ, lôi kéo Trung Quốc là cách hiệu quả nhất để cô lập Liên Xô. Họ đúng vào thời đại của mình, nhưng quên mất các giải pháp phòng ngừa khi khởi đầu cho việc tạo ra một đối thủ rồi còn nguy hiểm hơn cả Liên Xô. Hiểu biết sai lầm của thế giới phương Tây về bản chất của Trung Quốc khiến thế giới nhiều năm sau đối mặt với một thế lực hiếu chiến và đầy đe dọa. Mỹ, Nhật và Châu Âu phạm sai lầm khi nhận định một Trung Quốc phát triển hơn sẽ nhanh chóng hòa nhập vào thế giới văn minh và trở lên văn minh hơn thay vì man rợ như dưới thời Mao Trạch Đông. Họ chỉ đúng ở duy nhất một khía cạnh. Sau thông cáo Thượng Hải của Chu Ân Lai năm 1972, Trung Quốc chớp lấy thời cơ tái hòa nhập với thế giới và nhanh chóng vươn lên. Hơn 30 năm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc luôn dẫn đầu thế giới và đạt mức hai con số. Trung Quốc xâm nhập sâu sắc vào hệ thống sản xuất và thương mại toàn cầu, được coi là công xưởng của thế giới và đạt được những khoản thặng dư khổng lồ từ xuất khẩu. Nhưng trái với mong muốn của phương Tây, Trung Quốc ngày một phát triển hơn nhưng nó không văn minh hơn, ngược lại, nó trở lên ngày một dã man và hung hăng, tỷ lệ thuận với sự bành trướng sức mạnh về kinh tế và quân sự. Nguyên nhân bản chất của vấn đề, xuất phát từ nhận định sai lầm của phương tây, khi hầu hết đều trở lên văn minh hơn khi đạt được trình độ phát triển cao về kinh tế. Trong suốt 50 năm qua, triết lý phát triển của Trung Quốc là kẻ mạnh làm vua, người Trung Quốc bằng mọi cách làm giàu, chà đạp lên nhau và chà đạp lên các dân tộc khác để đạt được mục đích. Triết lý này được hậu thuẫn ở tầm quốc gia với lý thuyết mèo đen mèo trắng của Đặng Tiểu Bình. Đặng chỉ cần tiền, bất kể người Trung Quốc làm gì để có tiền đều được khuyến khích. Người Trung Quốc lao vào sản xuất mọi thứ, bán mọi thứ, sao chép mọi thứ, ăn cắp mọi thứ bất chấp hậu quả môi trường, bất chấp việc gây nguy hại cho sức khỏe của người tiêu dùng và thậm chí cả người sản xuất, bất chấp việc vi phạm luật pháp. Nói cách khác, với triết lý kẻ mạnh làm vua, mọi thứ luật lệ đều không có ý nghĩa với người Trung Quốc, hay luật lệ chỉ được diễn giải theo cách thức sao cho có lợi với họ. Càng phát triển, xã hội Trung Quốc càng trở lên hoang dã và kém văn minh. Thay vì hòa bình, sự hung hãn của Trung Quốc tăng dần theo thời gian. Năm 2015, Trung Quốc xuất hiện trước thế giới với một sức mạnh kinh tế đáng sợ và lực lượng quân sự đầy đe dọa. Trung Quốc diễn giải mọi thứ luật pháp quốc tế dưới một góc nhìn của riêng họ để tuyên bố chủ quyền với hầu hết biển Đông, biển Hoa Đông, khu vực Akai Chin ở phía đông Hymalaya. Bằng sức mạnh ngày một được củng cố về kinh tế và quốc phòng, Trung Quốc tiến những bước đầy quyết đoán trong dã thâm xâm lược lãnh thổ. Chiến hạm Trung quốc ngày một vươn xa hơn trên các đại dương. Đầu năm 2015, Trung Quốc mở đầu cho một thời kỳ xâm lược trên thực tế bằng việc bồi lấp 7 đảo tại quần đảo Trường Sa thuộc biển Đông, mở đầu cho một thời kỳ đầy bất ổn đối với chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á và sự an toàn của dòng chảy thương mại thế giới.

Đã quá muộn với nước Mỹ để đắp một con đê cô lập Trung Quốc như những gì họ đã làm với Liên Xô. Trong bối cảnh lao tâm tổn lực vì những cuộc can thiệp tốn kém liên miên trải dài từ Trung Đông sang đến Tây Á, Mỹ và đồng minh gần như kiệt quệ. Để tái vãn hồi quyền lực toàn cầu, Mỹ tìm cách củng cố các liên minh cũ và tìm kiếm thêm những đồng minh mới. Ý tưởng xoay trục sang phía Đông được hình thành từ một tuyên bố khởi đầu của ngoại trưởng Hilary Clinton dần được định hình, củng cố và giờ đây trở thành một quốc sách chiến lược. Người ta bắt đầu nhắc đến hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương, với sự góp mặt của Mỹ, Nhật Bản, Australia và nhiều quốc gia thuộc vành đai khu vực kinh tế đầy tiềm năng này. Bên cạnh việc tạo lập một sân chơi mới với sự góp mặt của những quốc gia năng động và đầy tiềm năng của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, mục đích chính của liên minh kinh tế mới này là tạo sự liên kết của một vành đai kinh tế các nước giáp giới Trung Quốc và nước Mỹ, nhằm củng cố cơ hội phát triển của các nước này và tạo tiền đề cho sự gắn kết mạnh mẽ hơn về an ninh quốc phòng, điều rồi sẽ diễn ra như một tất yếu khi mối liên hệ kinh tế ngày một tăng cường. Tất nhiên, hiệp định đối tác TPP, với sự góp mặt dự kiến của 12 quốc gia, chiếm 40% GDP và dân số toàn cầu, nói không với Trung Quốc. Dù có một vài ý kiến đâu đó bàn luận về việc để ngỏ sự tham gia của Trung Quốc vào TPP, nhưng TPP sẽ không còn là TPP nếu có mặt Trung Quốc.

Vượt qua nhiều lực cản, thỏa ước thương mại mang tính lịch sử với quyền lợi của Mỹ và nhiều quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam ngày một rõ nét và định hình. Có thể nói, TPP chính là hợp phần trọng yếu của bức tranh phân bổ quyền lực kinh tế và chính trị thế giới trong thế kỷ 21. Quan trọng với Mỹ, Nhật Bản, Australia, Việt Nam, Malaysia và tất cả các nước thành viên.

Trong bối cảnh đó, ngày 06 tháng 07 năm 2015, Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng lên đường thăm chính thức nước Mỹ theo lời mời của Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ Barack Obama, ghi một dấu ấn mới trong lịch sử quan hệ hai nước vốn từng là cựu thù và có cuộc chiến kéo dài tới 20 năm trong quá khứ. Đây là một ninh chứng rõ nét nhất cho thấy yếu tố lớn nhất và quan trọng nhất chi phối quan hệ giữa các quốc gia, trong đó lợi ích mỗi nước luôn là tối thượng và sự tương đồng lợi ích quốc gia sẽ giúp san bằng mọi khoảng cách, quá khứ và khác biệt.

Trong tuyên bố chung công khai được ông Trọng và ông Obama loan báo sau hội nghị, một tuyên bố được phát sóng trực tiếp trên nhiều kênh truyền thông quốc tế, hầu hết các nội dung đều không nằm ngoài dự đoán từ trước. Nói cách khác, đây là một cuộc viếng thăm ngoại giao được lên kế hoạch chu đáo từ cả hai phía với các nội dung đã được bàn thảo và thống nhất từ lâu. Ý nghĩa lớn nhất của nó, là thông điệp từ tính biểu tượng của sự kiện này. Và điều này, rồi sẽ quay trở lại tác động đến tình hình nội tại của Việt nam cũng như Hoa Kỳ trong giai đoạn sắp tới.

Trong phần tuyên bố của mình, ông Obama một mặt nhấn mạnh vào các đòi hỏi nhân quyền, vốn là một hợp phần tất yếu của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, nhưng phần quan trọng hơn cả trong bài phát biểu của ông Obama, là sự hợp tác kinh tế tương lai với nền tảng của TPP và các chính sách an ninh khu vực. Điều quan trọng hơn cả mà ông Obama không tuyên bố công khai nhưng được thể hiện bằng hành động thực tế: Với việc mời ông Nguyễn Phú Trọng trong một cuộc thăm viếng ngoại giao chính thức, Mỹ gửi thông điệp về sự thừa nhận và tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam, điều mà rồi đây sẽ có tác động sâu sắc đến chính sách đối ngoại của Việt Nam, vốn trước giờ luôn bị chia rẽ giữa hai làn sóng thân phương Tây hay Trung Quốc. Đây là một nước cờ mạo hiểm của ông Obama, nhưng nước Mỹ hầu như không phải trả giá mà chỉ cần chờ kết quả.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là một ẩn số bất ngờ trong chuyến viếng thăm này. Vốn được coi là một người giáo điều và cực kỳ bảo thủ, đại diện cho xu hướng bảo tồn sự tồn tại của Đảng Cộng Sản trong hệ thống chính trị Việt Nam, vốn đã từ lâu mất đi nền tảng tư tưởng mà chỉ còn lại bộ khung cai trị dựa trên quyền lực độc tài, tuy nhiên thông điệp mà ông Trọng gửi ra thế giới trong bài tuyên bố sau cuộc gặp lại là một lối tư duy gợi mở. Giống như Obama, ông Trọng nhấn mạnh vào sự hợp tác tương lai với nòng cốt là TPP. Điều đặc biệt hơn, ông công khai thừa nhận những quan ngại của Mỹ về nhân quyền và có một thái độ gợi mở về những thay đổi cả về pháp lý và chính sách, để đáp ứng các đòi hỏi của TPP, điều tất yếu sẽ dẫn tới sự cải thiện nhân quyền thông qua các chính sách cải thiện đời sống của người lao động. Với một lối trình bày tự tin bên cạnh Obama, sự chuẩn bị trước đầy chu đáo kỹ càng, ông Trọng phát ngôn mà không cần nhìn giấy, cho thấy sự tự tin của người đứng đầu hệ thống chính trị trong một sự kiện ngoại giao có tính quan trọng sống còn. Có thể nói, màn trình diễn của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng tại nhà trắng ngày 07/07/2015 gần như hoàn hảo đối với ông, khác hẳn các màn trình diễn yếu kém khi phát ngôn về nhiều vấn đề trong nước và bị chỉ trích trên các trang mạng xã hội.

Trong những ngày tháng cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống thứ hai. Hơn bất cứ ai, Barack Obama muốn ghi dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ để khời đầu cho một trật tự thế giới mới mà Mỹ vẫn giữ được vai trò của nó. Ông ta sẽ bằng mọi giá thúc đẩy tiến trình của hiệp định TPP, thiết lập bộ khung cho các thỏa ước kinh tế và an ninh của Mỹ với các đối tác mới và cũ. Mục đích của Obama khá rõ ràng, trật tự mới cần được thiết lập để chặn bước các tham vọng lãnh thổ đầy dã tâm của Trung Quốc, ngăn chặn đà ảnh hưởng của nó, để rồi hoặc Trung Quốc sẽ phải sụp đổ bởi những vấn đề nội tại, hoặc quốc gia này sẽ phải thay đổi trong hòa bình thay vì việc thúc đẩy dã tâm bành trướng. Quyền lợi của Mỹ trong bối cảnh đó là khá rõ nét, khi chắc chắn về lâu về dài, với ưu thế vượt trội của nền văn minh, Mỹ sẽ vẫn giữ vị thế dẫn đầu. Vấn đề của nước Mỹ và Obama, là tạo ra một trật tự mới có đủ sức mạnh để bắt Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế.

Ở phía bên kia, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đang trong những ngày tháng nắm quyền cuối cùng với vai trò đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam. Ông có một nhiệm kỳ gây tranh cãi với nhiều phát ngôn có tính giáo điều, và cuộc chiến không cân sức với đồng chí X (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng). Tuy nhiên, giống như một điều lạ lùng trong hệ thống chính trị Việt Nam, sự thay đổi đôi khi lại được hậu thuẫn từ những cái tên được cho là bảo thủ nhất. Tổng bí thư Lê Duẩn từng được coi là một tay độc tài và thủ đoạn khét tiếng, nhưng cũng chính ông ta, những năm cuối đời lại ủng hộ mạnh mẽ cho các bước đi đột phá của Bí thư thành ủy Hải Phòng Đoàn Duy Thành, người sau này thành phó thủ tướng và là một nhân vật quan trọng giúp định hướng chính sách đổi mới dưới thời Nguyễn Văn Linh. Với những gì đã thể hiện trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, ông Trọng gỡ gạc rất nhiều hình ảnh trong con mắt của 90 triệu người Việt Nam, vốn giành sự quan tâm theo dõi chuyến đi một cách rất đặc biệt. Có nhiều ý kiến cho rằng sẽ không có nhiều biến chuyển đột phá sau chuyến đi bởi chất liệu của hàng ngũ lãnh đạo ở Việt Nam vẫn hầu như không thay đổi. Anh Lãng nhìn nhận vấn đề dưới một góc độ tích cực hơn, khi ghi nhận rằng, sự chuyển dịch của dòng quyền lực Á Châu đang diễn ra dưới sự tác động của hiệp ước đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương, chảy xuôi qua hệ thống chính trị Việt Nam, và dẫn tới sự thay đổi lặng lẽ nhưng chắc chắn của cả một hệ thống.

Chất xúc tác quan trọng nhất cho sự dịch chuyển của dòng chảy quyền lực này, đối với Mỹ, là sự vươn lên đầy đe dọa của Trung Quốc trong tham vọng thâu tóm vùng ảnh hưởng. Là một quyền lực toàn cầu, nước Mỹ hiểu ý nghĩa và giá trị của việc duy trì được ảnh hưởng của Mỹ đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Trong một khía cạnh có tính khác biệt lớn hơn, chất xúc tác cho sự dịch chuyển dòng chảy quyền lực Á Châu xuyên qua Việt Nam, lại là mối đe dọa có tính sinh tồn: Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Dù là một thể chế độc tài, nhưng sự cai trị của ĐCS ở Việt Nam được xây dựng từ nền tảng của những cuộc chiến tranh nối tiếp giành độc lập và thống nhất đất nước. Trái với nhiều tuyên bố mang tính định hướng đầy thủ đoạn của Trung Quốc khi diễn giải nền tảng hợp tác Việt Trung: Sự hợp tác kinh tế luôn xếp trên mọi yếu tố khác. Ngược lại, yếu tố mang tính sinh tồn sống còn đối với thể chế chính trị Việt Nam, trên hết và bao trùm vẫn luôn là sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Nhất là trong bối cảnh, Việt Nam có những cơ hội lựa chọn hợp tác kinh tế trong một thế giới không phải chỉ có mình Trung Quốc.

Là một quốc gia kém phát triển nhất trong 12 nước đang tham gia đàm phán TPP, nhưng Việt Nam được dự báo là nước sẽ gặt hái nhiều lợi ích kinh tế nhất. Với các ràng buộc về xuất xứ hàng hóa tiêu thụ nội khối phải bắt nguồn từ các thành viên TPP, đây là một cách được Mỹ và đồng minh thiết lập nhằm làm suy yếu dần dòng thương mại từ Trung Quốc vào các quốc gia này, tiến tới triệt tiêu dần lợi thế kinh tế của Trung Quốc, khiến quốc gia này đối mặt với khó khăn và rồi sẽ phải chấp nhận một trật tự thế giới trong hòa bình. Đây là một cơ may lớn đối với Việt Nam khi có triển vọng nhận được làn sóng đầu tư to lớn và khuếch trương dòng thương mại xuất khẩu vào các khoảng trống thị trường mà Trung Quốc sẽ buộc phải để mất khi TPP thành công. Còn quá sớm để nói về tác động thực tiễn, nhưng nhiều nhà kinh tế học đã ước tính về một mức tăng trưởng mới của Việt Nam thậm chí lên đến 30%, một con số thật không thể tin được (Bờ Phone), thật tuyệt vời và đang có cơ hội trở thành thực tiễn.

Với vai trò là người đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam, trước một cơ hội có tính lịch sử, rõ ràng ông Nguyễn Phú Trọng đang có cơ hội ghi dấu ấn vào lịch sử. Ở một bức tranh khác, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người mới kết thúc chuyến thăm Nhật Bản ít ngày trước với sự thành công thực tế còn lớn hơn chuyến đi Mỹ của ông Trọng, khi nhận được khoản cam kết tài trợ 3,1 tỷ USD từ Nhật bản, và đặc biệt hai bên ra tuyên bố chung về cơ bản đã kết thúc đàm phán TPP Việt Nhật. Nếu ở một thời điểm khác, thành tích của ông Dũng sẽ gây chú ý lớn đối với các nhà quan sát Việt Nam cũng như quốc tế, nhưng tính hấp dẫn của chuyến thăm viếng lịch sử của ông Nguyễn Phú Trọng đã khiến vầng hào quang đó lu mờ. Tuy nhiên ông Dũng chẳng có lý do gì để buồn phiền khi gần như chắc chắn ông ta sẽ là người đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam sau năm 2016, với sự tập trung quyền lực cao độ và một hứa hẹn về một giai đoạn phát triển mới của Việt Nam do sự vận động của dòng chảy quyền lực Á Châu đang mang lại. Điều đó khiến mâu thuẫn phe nhóm và quyền lực trong nội bộ Việt Nam được làm dịu đi đáng kể khi cả hệ thống gần như đều đang chịu tác động của cùng một xu thế và có cùng một tầm nhìn.

Trong một vài thiên Lãng luận khi bàn tới những quyết sách lớn của Trung Quốc, anh Lãng từng nhắc tới những sai lầm có tính chiến lược của giới cầm quyền nước này, khi lựa chọn cách khuếch chương quyền lực cứng bằng các yêu sách lãnh thổ, thay vì quyền lực mềm qua các hiệp ước kinh tế và liên kết thị trường. Hầu hết các nỗ lực của Trung Quốc, khi khởi động dự án ngân hàng phát triển châu Á hay vành đai kinh tế con đường tơ lụa xuyên á âu đầy tham vọng đều bị triệt tiêu vì những chính sách xâm lăng mới của quốc gia này. Trung Quốc chớp được thời cơ khi các trung tâm quyền lực lớn trên thế giới phạm nhiều sai lầm và suy yếu, và đến lượt nó cũng gặp phải sai lầm. Cơ hội ngày hôm nay của Việt Nam, được tạo ra từng chính sách của Trung Quốc. Thành công hay thất bại thì còn phải nhìn vào thực tiễn cách mà hệ thống chính trị Việt Nam, đất nước và con người Việt Nam chớp lấy cơ hội ấy như thế nào.

Sẽ là thiếu toàn vẹn khi nhắc tới tình hình nội tại gần đây của Trung Quốc. Sau một thời gian dài tăng trưởng, nền kinh tế nước này đã hạ nhiệt và xuất hiện nhiều dấu ấn khó khăn. Các ung nhọt vốn đã âm ỉ từ lâu trong các thị trường bất động sản và chứng khoán của nước này hầu như chỉ chờ cơ hội bùng phát. Nếu Mỹ thành công với TPP, tạo ra một sân chơi mới ngăn chặn sự tham gia của Trung Quốc, quốc gia có cái máu bành trướng thâm căn cố đế ấy sẽ gặp phải khó khăn gấp đôi khi hoàn cảnh ngày một kém thuận lợi hơn. Sự hoang dã vô luật pháp của xã hội Trung Quốc rồi sẽ khiến đất nước này tổn hại nặng nề và lâm vào hỗn loạn khi các ung nhọt của nền kinh tế bùng phát và đổ vỡ niềm tin. Đây là một câu chuyện mới, khởi đầu cho một thiên Lãng luận thú vị mà chắc chắn anh Lãng sẽ có cơ hội bàn đến trong tương lai phía trước.

Cuối cùng, thì chính chúng ta sẽ ở đâu trong sự vận động mới của dòng chảy quyền lực Á Châu? Các bạn sẽ đứng bên lề, trầm trồ quan sát hay cố gắng trở thành một bộ phận của dòng chảy ấy và chớp lấy các cơ hội từ đó? Trong nhiều tháng qua, anh Lãng có nhiều cuộc gặp với các đối tác và bạn bè, những người đang cố gắng đón đầu một cơ hội mới trong bối cảnh thị trường đầu tư chưa bao giờ thuận lợi hơn (về vốn, về lãi suất...) trong 15 năm qua ở Việt Nam. Đó sẽ chính là những người đi tiên phong để gặt hái thành quả. Mặt khác, cơ hội của sự phát triển là chia đều cho tất cả chúng ta, miễn là các bạn phải đón nhận nó với một tinh thần chủ động. Đó sẽ là những cơ hội việc làm mới, được tạo ra từ kết quả của sự tăng trưởng và cả một trào lưu mới về tư duy thay thế cho nền văn hóa hỗn độn, dị hợm và chán chường. Điều đặc biệt là gần đây, anh Lãng ghi nhận thấy sự tồn tại của một trang báo online duy nhất không mang xu thế lá cải, và nhiều lúc có nhiều thứ đáng xem là trang giaoduc.net.vn. Còn quá sớm và quá ít ỏi để nói về một trào lưu tư tưởng mới, nhưng mọi thứ đều phải có điểm khởi đầu.