- Tháng 7 năm 2015, cuộc can thiệp của Hoa Kỳ tại Apghanistan bước
sang năm thứ 15. Phần lớn quân đội Mỹ đã rút đi nhưng sự tồn tại của
chính quyền do Mỹ và đồng minh dựng lên vẫn rất bấp bênh. Taliban có xu
hướng trỗi dậy và sự khống chế của Mỹ đối với đất nước này ngày một
giảm, kèm với đó là dấu hiệu hỗn loạn có chiều hướng lan tràn. Dù cuộc
can thiệp của Mỹ ở Apghanistan được ghi mốc son với cái chết của Osama
Binladen, nhưng khó có thể nói Mỹ gặt được lợi ích thực tiễn gì sau cuộc
can thiệp tốn kém này.
- Sau 24 năm kể từ khi chiến dịch
Bão táp sa mạc do tổng thống George H. Bush khởi xướng, nước Mỹ lần lượt
tiến hành nhiều cuộc chiến tranh lớn tại Iraq cho tới khi chính quyền
Saddam Hussein bị đánh bại hoàn toàn. Dấu ấn của Mỹ đối với cuộc chiến
này được coi là thắng lợi với hình phạt tử hình dành cho Saddam và khoản
chiến phí nhiều nghìn tỷ đổ vào đất nước Trung đông. Sau các biến cố
thời cuộc, quân đội Mỹ rút hết về nước, để lại một Iraq trong loạn lạc
và hoang tàn.
- Mùa xuân Ả rập bắt nguồn từ một phong trào
đường phố năm 2011, do nhiều yếu tố xã hội, nhanh chóng trở thành một
làn sóng quét qua hàng loạt quốc gia:Tunisia, Ai Cập, Yemen, Algeria,
Jordan, Bahrain, Iran, Libya và nhiều nước khác. Lấy cảm hứng từ ước
muốn thay đổi xã hội và ảnh hưởng từ các nước phương Tây, nhưng hầu hết
các phong trào cách mạng này đều nhanh chóng thoái hóa dưới sự chi phối
của các thế lực hồi giáo cực đoan. Đỉnh điểm của những cuộc cách mạng
màu này là sự sụp đổ của tổng thống Ai cập Mumbarak và đặc biệt là cái
chết của nhà độc tài Gaddafi của Libya khi đang chạy trốn. Sự kiểm soát
của Mỹ đối với khu vực trở lên bấp bênh sau khi nhiều chính phủ do Mỹ
tiếp sức trong nhiều năm nối nhau sụp đổ. Chính sách và cách tiếp cận
của Mỹ đối với các chính phủ độc tài trên thế giới về sau này chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ các cuộc cách mạng màu. Bài học rút ra về sau là thà
đối thoại với một tay độc tài đốn mạt, còn hơn là đối mặt với một đám
đông bạo loạn, mất kiểm soát và thường xuyên bị sâu xé bởi các làn sóng
cực đoan. Cuộc cách mạng màu tại Trung cận đông cũng đánh dấu sự ra đời
của một hiểm họa mới đối với thế giới: Hồi giáo cực đoan trỗi dậy trong
sự suy yếu chính quyền của nhiều quốc gia trong hỗn loạn. Ảnh hưởng của
nó đến thế giới là rất sâu sắc và đe dọa tới trật tự mới của thế giới
trong ngưỡng cửa của năm 2015.
- Bốn năm trôi qua kể từ
ngày 26/01/2011 tại Syria, đất nước này chìm vào làn sóng chiến tranh và
bạo lực dưới sự tác động của ba thế lực: Mỹ và phương tây với các lợi
ích trong khu vực, hậu thuẫn cho một lực lượng đối lập thường xuyên mâu
thuẫn. Ở một phía khác là Nga và Iran, tìm mọi cách duy trì chính phủ
độc tài thân thiện với họ do tổng thống Bashar Al_Assad đứng đầu. Và lực
lượng còn lại là các thế lực hồi giáo cực đoan. Sự can thiệp của Mỹ tại
Syria ít mạnh mẽ do sự can dự của Nga, cũng chính lò lửa này là tiền đề
cho sự ra đời của nhà nước Hồi giáo cực đoan IS khét tiếng.
-
Năm 2014 đánh dấu sự trở lại đầy hung hãn của nước Nga khi lần đầu tiên
kể từ sau thế chiến thứ hai, đất nước này mở rộng lãnh thổ bằng việc
sát nhập một lãnh thổ thuộc chủ quyền của nước khác sau một loạt biến cố
chính trị và ngoại giao. Cuộc thôn tính của nước Nga ở Crimea được coi
là một chiến dịch đặc biệt thành công về mặt chiến thuật, nhưng những
hậu quả của nó đối với thế giới là rất lâu dài. Nước Nga có nhiều lý do
để biện hộ cho mình khi quả thực họ bị Mỹ và phương tây chèn ép trong
nhiều năm, với việc liên tục mở rộng biên giới Nato sang phía đông. Diễn
biến tại Ucraine là một lò lửa hoang tàn, nền kinh tế hầu như bị hủy
diệt. Đây là một minh chứng cho thấy sự thất bại của cả Nga và Phương
tây trong việc tìm kiếm một sự phân bổ thế lực hòa bình. Nga xâm lược
thành công Crimea nhưng rơi vào trạng thái cô lập và buộc phải quay sang
bắt tay với mối họa tiềm ẩn lớn nhất của nó là Trung Quốc. Mỹ và phương
tây thành công khi cô lập Nga và đẩy quốc gia này vào trạng thái khó
khăn, nhưng gặp thất bại chiến lược khi đẩy Nga về phía Trung Quốc. Trên
thực tế, đây là một kết quả thua thiệt đối với cả hai thế lực lớn thời
hậu chiến tranh lạnh, duy nhất hưởng lợi chính là Trung Quốc. Hậu quả
của nó đối với thế giới là rất lâu dài, cuộc xâm lược thành công không
tiếng súng của Nga đã tạo cảm hứng cho Trung Quốc tại Hoa Đông và đặc
biệt là Biển Đông. Bước tiến của Trung Quốc trở lên ngày một mạnh mẽ và
cương quyết trong tham vọng thôn tính lãnh thổ và lãnh hải của các quốc
gia yếu hơn lân cận.
- Cuộc khủng hoảng tài chính của Hy
Lạp năm 2015 đã đến lúc bùng phát và hầu như vô phương cứu chữa. Sự quản
lý yếu kém trong nhiều năm và việc vay mượn chi tiêu vô tội vạ đã khiến
chỉnh phủ nước này phá sản, và lối thoát duy nhất là trông chờ vào sự
cứu giúp của các nước thuộc Euro zone, vốn có sự kiên nhẫn đã gần về 0
khi không nhìn thấy một sự cải thiện nào tại Hy Lạp sau các gói giải cứu
khổng lồ tốn kém tới hơn 300 tỷ euro. Việc Hy lạp được cứu hay buộc
phải rời bỏ EU cũng hầu như chỉ dẫn tới một kết quả giống nhau: Cộng
đồng kinh tế chung châu Âu bước vào một thời kỳ mới đầy khó khăn và chia
rẽ. Với tư cách là một cộng đồng kinh tế lớn, văn minh và phát triển
bậc nhất thế giới, sự suy yếu của khối này sẽ tạo nhiều khoảng trống
quyền lực cho các thế lực khác đang vươn lên. Đây là một tin tốt đối với
nước Nga hay Trung Quốc và là một tin buồn đối với nước Mỹ khi xét tới
sức mạnh trong tương quan so sánh của các đồng minh.
- Năm
2014, theo một số thống kê bằng chỉ số sức mua tương đương PPP, Trung
Quốc được cho là đã vượt Mỹ về mặt quy mô của nền kinh tế. Có nhiều
tranh cãi về tính thực tế của cách tính ngày, nhưng việc nước Mỹ bị
Trung Quốc bám đuổi sát nút đã là một thực tế không thế phủ nhận. Dù
được dự báo sẽ lâm vào một thời kỳ trì trệ với nhiều bất ổn, nhưng tốc
độ tăng trưởng của Trung Quốc vẫn cao hơn Mỹ xét trên mọi khía cạnh. Sự
xâm nhập kinh tế của Trung Quốc đối với thế giới đã trở thành một điều
không thể ngăn chặn. Thặng dư kinh tế giúp Trung Quốc có nhiều nguồn lực
đầu tư mạnh mẽ vào năng lực chiến tranh. Ngân sách quốc phòng của Trung
Quốc tăng liên tục nhiều con số trong nhiều năm, vượt nhiều lần tốc độ
tăng trưởng GDP. Sự đe dọa của Trung Quốc với Nhật Bản, Việt Nam, Ấn Độ,
Philipin và nhiều quốc gia giáp giới của nó cũng ngày một mạnh mẽ hơn.
Trong năm 2014, chiến hạm Trung Quốc ngày một vươn xa trên các đại
dương, cùng với các đòi hỏi ngày một tham vọng hơn về lãnh thổ và lãnh
hải.
Những xu thế liệt kê ở trên chính là những yếu tố
khởi đầu cho một bức tranh mới về trật tự thế giới hiện đại. Cùng với sự
suy yếu của quyền lực Mỹ sau nhiều ngày tháng huy hoàng, nhiều chiến
lược gia của phương tây đang tự hỏi: Điều gì đang diễn ra, và vì đâu mà
với nhiều lợi thế đạt được sau khi kết thúc chiến tranh lạnh những năm
1990, phương tây nhanh chóng suy yếu và bước sang sườn dốc phía bên kia
của quyền lực?
Khởi đầu của bức tranh này, cần phải nhìn
nhận lại những năm tháng mà Brzezinsky và Henry Kissinger còn làm mưa
làm gió trên chính trường Hoa Kỳ những năm 80 của thế kỷ trước. Cố vấn
an ninh quốc gia Brezinsky được coi là tác giả của bức tường cô lập Liên
Xô khiến siêu cường khét tiếng một thời cuối cùng gục ngã vì những khó
khăn đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Nhưng cũng chính Brzezinsky và
Kissinger đã khởi đầu cho một xu thế sai lầm của phương tây trong nhiều
thập niên: Cùng với việc cô lập Liên Xô, Mỹ và phần còn lại của thế giới
chìa tay gần như vô điều kiện với Trung Quốc, tặng cho quốc gia này một
làn sóng hậu thuẫn về vốn và công nghệ vượt bậc và những cơ hội thâm
nhập thị trường với rất ít ràng buộc. Trong con mắt của các chiến lược
gia phương Tây thời bấy giờ, lôi kéo Trung Quốc là cách hiệu quả nhất để
cô lập Liên Xô. Họ đúng vào thời đại của mình, nhưng quên mất các giải
pháp phòng ngừa khi khởi đầu cho việc tạo ra một đối thủ rồi còn nguy
hiểm hơn cả Liên Xô. Hiểu biết sai lầm của thế giới phương Tây về bản
chất của Trung Quốc khiến thế giới nhiều năm sau đối mặt với một thế lực
hiếu chiến và đầy đe dọa. Mỹ, Nhật và Châu Âu phạm sai lầm khi nhận
định một Trung Quốc phát triển hơn sẽ nhanh chóng hòa nhập vào thế giới
văn minh và trở lên văn minh hơn thay vì man rợ như dưới thời Mao Trạch
Đông. Họ chỉ đúng ở duy nhất một khía cạnh. Sau thông cáo Thượng Hải của
Chu Ân Lai năm 1972, Trung Quốc chớp lấy thời cơ tái hòa nhập với thế
giới và nhanh chóng vươn lên. Hơn 30 năm tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc luôn dẫn đầu thế giới và đạt mức hai con số. Trung Quốc xâm
nhập sâu sắc vào hệ thống sản xuất và thương mại toàn cầu, được coi là
công xưởng của thế giới và đạt được những khoản thặng dư khổng lồ từ
xuất khẩu. Nhưng trái với mong muốn của phương Tây, Trung Quốc ngày một
phát triển hơn nhưng nó không văn minh hơn, ngược lại, nó trở lên ngày
một dã man và hung hăng, tỷ lệ thuận với sự bành trướng sức mạnh về kinh
tế và quân sự. Nguyên nhân bản chất của vấn đề, xuất phát từ nhận định
sai lầm của phương tây, khi hầu hết đều trở lên văn minh hơn khi đạt
được trình độ phát triển cao về kinh tế. Trong suốt 50 năm qua,
triết lý phát triển của Trung Quốc là kẻ mạnh làm vua, người Trung Quốc
bằng mọi cách làm giàu, chà đạp lên nhau và chà đạp lên các dân tộc khác
để đạt được mục đích. Triết lý này được hậu thuẫn ở tầm quốc
gia với lý thuyết mèo đen mèo trắng của Đặng Tiểu Bình. Đặng chỉ cần
tiền, bất kể người Trung Quốc làm gì để có tiền đều được khuyến khích.
Người Trung Quốc lao vào sản xuất mọi thứ, bán mọi thứ, sao chép mọi
thứ, ăn cắp mọi thứ bất chấp hậu quả môi trường, bất chấp việc gây nguy
hại cho sức khỏe của người tiêu dùng và thậm chí cả người sản xuất, bất
chấp việc vi phạm luật pháp. Nói cách khác, với triết lý kẻ mạnh làm
vua, mọi thứ luật lệ đều không có ý nghĩa với người Trung Quốc, hay luật
lệ chỉ được diễn giải theo cách thức sao cho có lợi với họ. Càng phát
triển, xã hội Trung Quốc càng trở lên hoang dã và kém văn minh. Thay vì
hòa bình, sự hung hãn của Trung Quốc tăng dần theo thời gian. Năm 2015,
Trung Quốc xuất hiện trước thế giới với một sức mạnh kinh tế đáng sợ và
lực lượng quân sự đầy đe dọa. Trung Quốc diễn giải mọi thứ luật pháp
quốc tế dưới một góc nhìn của riêng họ để tuyên bố chủ quyền với hầu hết
biển Đông, biển Hoa Đông, khu vực Akai Chin ở phía đông Hymalaya. Bằng
sức mạnh ngày một được củng cố về kinh tế và quốc phòng, Trung Quốc tiến
những bước đầy quyết đoán trong dã thâm xâm lược lãnh thổ. Chiến hạm
Trung quốc ngày một vươn xa hơn trên các đại dương. Đầu năm 2015, Trung
Quốc mở đầu cho một thời kỳ xâm lược trên thực tế bằng việc bồi lấp 7
đảo tại quần đảo Trường Sa thuộc biển Đông, mở đầu cho một thời kỳ đầy
bất ổn đối với chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á và sự an toàn của
dòng chảy thương mại thế giới.
Đã quá muộn với nước Mỹ để
đắp một con đê cô lập Trung Quốc như những gì họ đã làm với Liên Xô.
Trong bối cảnh lao tâm tổn lực vì những cuộc can thiệp tốn kém liên miên
trải dài từ Trung Đông sang đến Tây Á, Mỹ và đồng minh gần như kiệt
quệ. Để tái vãn hồi quyền lực toàn cầu, Mỹ tìm cách củng cố các liên
minh cũ và tìm kiếm thêm những đồng minh mới. Ý tưởng xoay trục sang
phía Đông được hình thành từ một tuyên bố khởi đầu của ngoại trưởng
Hilary Clinton dần được định hình, củng cố và giờ đây trở thành một quốc
sách chiến lược. Người ta bắt đầu nhắc đến hiệp định đối tác thương mại
xuyên Thái Bình Dương, với sự góp mặt của Mỹ, Nhật Bản, Australia và
nhiều quốc gia thuộc vành đai khu vực kinh tế đầy tiềm năng này. Bên
cạnh việc tạo lập một sân chơi mới với sự góp mặt của những quốc gia
năng động và đầy tiềm năng của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, mục
đích chính của liên minh kinh tế mới này là tạo sự liên kết của một vành
đai kinh tế các nước giáp giới Trung Quốc và nước Mỹ, nhằm củng cố cơ
hội phát triển của các nước này và tạo tiền đề cho sự gắn kết mạnh mẽ
hơn về an ninh quốc phòng, điều rồi sẽ diễn ra như một tất yếu khi mối
liên hệ kinh tế ngày một tăng cường. Tất nhiên, hiệp định đối tác TPP,
với sự góp mặt dự kiến của 12 quốc gia, chiếm 40% GDP và dân số toàn
cầu, nói không với Trung Quốc. Dù có một vài ý kiến đâu đó bàn luận về
việc để ngỏ sự tham gia của Trung Quốc vào TPP, nhưng TPP sẽ không còn
là TPP nếu có mặt Trung Quốc.
Vượt qua nhiều lực cản, thỏa
ước thương mại mang tính lịch sử với quyền lợi của Mỹ và nhiều quốc gia
châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam ngày một rõ nét và định
hình. Có thể nói, TPP chính là hợp phần trọng yếu của bức tranh phân bổ
quyền lực kinh tế và chính trị thế giới trong thế kỷ 21. Quan trọng với
Mỹ, Nhật Bản, Australia, Việt Nam, Malaysia và tất cả các nước thành
viên.
Trong bối cảnh đó, ngày 06 tháng 07 năm 2015, Tổng
bí thư ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng lên đường thăm chính thức nước Mỹ
theo lời mời của Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ Barack Obama, ghi một
dấu ấn mới trong lịch sử quan hệ hai nước vốn từng là cựu thù và có cuộc
chiến kéo dài tới 20 năm trong quá khứ. Đây là một ninh chứng rõ nét
nhất cho thấy yếu tố lớn nhất và quan trọng nhất chi phối quan hệ giữa
các quốc gia, trong đó lợi ích mỗi nước luôn là tối thượng và sự tương
đồng lợi ích quốc gia sẽ giúp san bằng mọi khoảng cách, quá khứ và khác
biệt.
Trong tuyên bố chung công khai được ông Trọng và ông
Obama loan báo sau hội nghị, một tuyên bố được phát sóng trực tiếp trên
nhiều kênh truyền thông quốc tế, hầu hết các nội dung đều không nằm
ngoài dự đoán từ trước. Nói cách khác, đây là một cuộc viếng thăm ngoại
giao được lên kế hoạch chu đáo từ cả hai phía với các nội dung đã được
bàn thảo và thống nhất từ lâu. Ý nghĩa lớn nhất của nó, là thông điệp từ
tính biểu tượng của sự kiện này. Và điều này, rồi sẽ quay trở lại tác
động đến tình hình nội tại của Việt nam cũng như Hoa Kỳ trong giai đoạn
sắp tới.
Trong phần tuyên bố của mình, ông Obama một mặt
nhấn mạnh vào các đòi hỏi nhân quyền, vốn là một hợp phần tất yếu của
chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, nhưng phần quan trọng hơn cả trong bài
phát biểu của ông Obama, là sự hợp tác kinh tế tương lai với nền tảng
của TPP và các chính sách an ninh khu vực. Điều quan trọng hơn cả mà ông
Obama không tuyên bố công khai nhưng được thể hiện bằng hành động thực
tế: Với việc mời ông Nguyễn Phú Trọng trong một cuộc thăm viếng ngoại
giao chính thức, Mỹ gửi thông điệp về sự thừa nhận và tôn trọng thể chế
chính trị của Việt Nam, điều mà rồi đây sẽ có tác động sâu sắc đến chính
sách đối ngoại của Việt Nam, vốn trước giờ luôn bị chia rẽ giữa hai làn
sóng thân phương Tây hay Trung Quốc. Đây là một nước cờ mạo hiểm của
ông Obama, nhưng nước Mỹ hầu như không phải trả giá mà chỉ cần chờ kết
quả.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là một ẩn số bất ngờ
trong chuyến viếng thăm này. Vốn được coi là một người giáo điều và cực
kỳ bảo thủ, đại diện cho xu hướng bảo tồn sự tồn tại của Đảng Cộng Sản
trong hệ thống chính trị Việt Nam, vốn đã từ lâu mất đi nền tảng tư
tưởng mà chỉ còn lại bộ khung cai trị dựa trên quyền lực độc tài, tuy
nhiên thông điệp mà ông Trọng gửi ra thế giới trong bài tuyên bố sau
cuộc gặp lại là một lối tư duy gợi mở. Giống như Obama, ông Trọng nhấn
mạnh vào sự hợp tác tương lai với nòng cốt là TPP. Điều đặc biệt hơn,
ông công khai thừa nhận những quan ngại của Mỹ về nhân quyền và có một
thái độ gợi mở về những thay đổi cả về pháp lý và chính sách, để đáp ứng
các đòi hỏi của TPP, điều tất yếu sẽ dẫn tới sự cải thiện nhân quyền
thông qua các chính sách cải thiện đời sống của người lao động. Với một
lối trình bày tự tin bên cạnh Obama, sự chuẩn bị trước đầy chu đáo kỹ
càng, ông Trọng phát ngôn mà không cần nhìn giấy, cho thấy sự tự tin của
người đứng đầu hệ thống chính trị trong một sự kiện ngoại giao có tính
quan trọng sống còn. Có thể nói, màn trình diễn của Tổng Bí Thư Nguyễn
Phú Trọng tại nhà trắng ngày 07/07/2015 gần như hoàn hảo đối với ông,
khác hẳn các màn trình diễn yếu kém khi phát ngôn về nhiều vấn đề trong
nước và bị chỉ trích trên các trang mạng xã hội.
Trong
những ngày tháng cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống thứ hai. Hơn bất cứ
ai, Barack Obama muốn ghi dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ để khời đầu cho
một trật tự thế giới mới mà Mỹ vẫn giữ được vai trò của nó. Ông ta sẽ
bằng mọi giá thúc đẩy tiến trình của hiệp định TPP, thiết lập bộ khung
cho các thỏa ước kinh tế và an ninh của Mỹ với các đối tác mới và cũ.
Mục đích của Obama khá rõ ràng, trật tự mới cần được thiết lập để chặn
bước các tham vọng lãnh thổ đầy dã tâm của Trung Quốc, ngăn chặn đà ảnh
hưởng của nó, để rồi hoặc Trung Quốc sẽ phải sụp đổ bởi những vấn đề nội
tại, hoặc quốc gia này sẽ phải thay đổi trong hòa bình thay vì việc
thúc đẩy dã tâm bành trướng. Quyền lợi của Mỹ trong bối cảnh đó là khá
rõ nét, khi chắc chắn về lâu về dài, với ưu thế vượt trội của nền văn
minh, Mỹ sẽ vẫn giữ vị thế dẫn đầu. Vấn đề của nước Mỹ và Obama, là tạo
ra một trật tự mới có đủ sức mạnh để bắt Trung Quốc tôn trọng luật pháp
quốc tế.
Ở phía bên kia, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng
đang trong những ngày tháng nắm quyền cuối cùng với vai trò đứng đầu hệ
thống chính trị Việt Nam. Ông có một nhiệm kỳ gây tranh cãi với nhiều
phát ngôn có tính giáo điều, và cuộc chiến không cân sức với đồng chí X
(Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng). Tuy nhiên, giống như một điều lạ lùng trong
hệ thống chính trị Việt Nam, sự thay đổi đôi khi lại được hậu thuẫn từ
những cái tên được cho là bảo thủ nhất. Tổng bí thư Lê Duẩn từng được
coi là một tay độc tài và thủ đoạn khét tiếng, nhưng cũng chính ông ta,
những năm cuối đời lại ủng hộ mạnh mẽ cho các bước đi đột phá của Bí thư
thành ủy Hải Phòng Đoàn Duy Thành, người sau này thành phó thủ tướng và
là một nhân vật quan trọng giúp định hướng chính sách đổi mới dưới thời
Nguyễn Văn Linh. Với những gì đã thể hiện trong chuyến viếng thăm Hoa
Kỳ, ông Trọng gỡ gạc rất nhiều hình ảnh trong con mắt của 90 triệu người
Việt Nam, vốn giành sự quan tâm theo dõi chuyến đi một cách rất đặc
biệt. Có nhiều ý kiến cho rằng sẽ không có nhiều biến chuyển đột phá sau
chuyến đi bởi chất liệu của hàng ngũ lãnh đạo ở Việt Nam vẫn hầu như
không thay đổi. Anh Lãng nhìn nhận vấn đề dưới một góc độ tích
cực hơn, khi ghi nhận rằng, sự chuyển dịch của dòng quyền lực Á Châu
đang diễn ra dưới sự tác động của hiệp ước đối tác thương mại xuyên Thái
Bình Dương, chảy xuôi qua hệ thống chính trị Việt Nam, và dẫn tới sự
thay đổi lặng lẽ nhưng chắc chắn của cả một hệ thống.
Chất
xúc tác quan trọng nhất cho sự dịch chuyển của dòng chảy quyền lực này,
đối với Mỹ, là sự vươn lên đầy đe dọa của Trung Quốc trong tham vọng
thâu tóm vùng ảnh hưởng. Là một quyền lực toàn cầu, nước Mỹ hiểu ý nghĩa
và giá trị của việc duy trì được ảnh hưởng của Mỹ đối với khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương. Trong một khía cạnh có tính khác biệt lớn hơn, chất
xúc tác cho sự dịch chuyển dòng chảy quyền lực Á Châu xuyên qua Việt
Nam, lại là mối đe dọa có tính sinh tồn: Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.
Dù là một thể chế độc tài, nhưng sự cai trị của ĐCS ở Việt Nam được xây
dựng từ nền tảng của những cuộc chiến tranh nối tiếp giành độc lập và
thống nhất đất nước. Trái với nhiều tuyên bố mang tính định hướng đầy
thủ đoạn của Trung Quốc khi diễn giải nền tảng hợp tác Việt Trung: Sự
hợp tác kinh tế luôn xếp trên mọi yếu tố khác. Ngược lại, yếu tố mang
tính sinh tồn sống còn đối với thể chế chính trị Việt Nam, trên hết và
bao trùm vẫn luôn là sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Nhất là trong bối
cảnh, Việt Nam có những cơ hội lựa chọn hợp tác kinh tế trong một thế
giới không phải chỉ có mình Trung Quốc.
Là một quốc gia
kém phát triển nhất trong 12 nước đang tham gia đàm phán TPP, nhưng Việt
Nam được dự báo là nước sẽ gặt hái nhiều lợi ích kinh tế nhất. Với các
ràng buộc về xuất xứ hàng hóa tiêu thụ nội khối phải bắt nguồn từ các
thành viên TPP, đây là một cách được Mỹ và đồng minh thiết lập nhằm làm
suy yếu dần dòng thương mại từ Trung Quốc vào các quốc gia này, tiến tới
triệt tiêu dần lợi thế kinh tế của Trung Quốc, khiến quốc gia này đối
mặt với khó khăn và rồi sẽ phải chấp nhận một trật tự thế giới trong hòa
bình. Đây là một cơ may lớn đối với Việt Nam khi có triển vọng nhận
được làn sóng đầu tư to lớn và khuếch trương dòng thương mại xuất khẩu
vào các khoảng trống thị trường mà Trung Quốc sẽ buộc phải để mất khi
TPP thành công. Còn quá sớm để nói về tác động thực tiễn, nhưng nhiều
nhà kinh tế học đã ước tính về một mức tăng trưởng mới của Việt Nam thậm
chí lên đến 30%, một con số thật không thể tin được (Bờ Phone), thật
tuyệt vời và đang có cơ hội trở thành thực tiễn.
Với vai
trò là người đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam, trước một cơ hội có
tính lịch sử, rõ ràng ông Nguyễn Phú Trọng đang có cơ hội ghi dấu ấn vào
lịch sử. Ở một bức tranh khác, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người mới kết
thúc chuyến thăm Nhật Bản ít ngày trước với sự thành công thực tế còn
lớn hơn chuyến đi Mỹ của ông Trọng, khi nhận được khoản cam kết tài trợ
3,1 tỷ USD từ Nhật bản, và đặc biệt hai bên ra tuyên bố chung về cơ bản
đã kết thúc đàm phán TPP Việt Nhật. Nếu ở một thời điểm khác, thành tích
của ông Dũng sẽ gây chú ý lớn đối với các nhà quan sát Việt Nam cũng
như quốc tế, nhưng tính hấp dẫn của chuyến thăm viếng lịch sử của ông
Nguyễn Phú Trọng đã khiến vầng hào quang đó lu mờ. Tuy nhiên ông Dũng
chẳng có lý do gì để buồn phiền khi gần như chắc chắn ông ta sẽ là người
đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam sau năm 2016, với sự tập trung
quyền lực cao độ và một hứa hẹn về một giai đoạn phát triển mới của Việt
Nam do sự vận động của dòng chảy quyền lực Á Châu đang mang lại. Điều
đó khiến mâu thuẫn phe nhóm và quyền lực trong nội bộ Việt Nam được làm
dịu đi đáng kể khi cả hệ thống gần như đều đang chịu tác động của cùng
một xu thế và có cùng một tầm nhìn.
Trong một vài thiên
Lãng luận khi bàn tới những quyết sách lớn của Trung Quốc, anh Lãng từng
nhắc tới những sai lầm có tính chiến lược của giới cầm quyền nước này,
khi lựa chọn cách khuếch chương quyền lực cứng bằng các yêu sách lãnh
thổ, thay vì quyền lực mềm qua các hiệp ước kinh tế và liên kết thị
trường. Hầu hết các nỗ lực của Trung Quốc, khi khởi động dự án ngân hàng
phát triển châu Á hay vành đai kinh tế con đường tơ lụa xuyên á âu đầy
tham vọng đều bị triệt tiêu vì những chính sách xâm lăng mới của quốc
gia này. Trung Quốc chớp được thời cơ khi các trung tâm quyền lực lớn
trên thế giới phạm nhiều sai lầm và suy yếu, và đến lượt nó cũng gặp
phải sai lầm. Cơ hội ngày hôm nay của Việt Nam, được tạo ra từng chính
sách của Trung Quốc. Thành công hay thất bại thì còn phải nhìn vào thực
tiễn cách mà hệ thống chính trị Việt Nam, đất nước và con người Việt Nam
chớp lấy cơ hội ấy như thế nào.
Sẽ là thiếu toàn vẹn khi
nhắc tới tình hình nội tại gần đây của Trung Quốc. Sau một thời gian dài
tăng trưởng, nền kinh tế nước này đã hạ nhiệt và xuất hiện nhiều dấu ấn
khó khăn. Các ung nhọt vốn đã âm ỉ từ lâu trong các thị trường bất động
sản và chứng khoán của nước này hầu như chỉ chờ cơ hội bùng phát. Nếu
Mỹ thành công với TPP, tạo ra một sân chơi mới ngăn chặn sự tham gia của
Trung Quốc, quốc gia có cái máu bành trướng thâm căn cố đế ấy sẽ gặp
phải khó khăn gấp đôi khi hoàn cảnh ngày một kém thuận lợi hơn. Sự hoang
dã vô luật pháp của xã hội Trung Quốc rồi sẽ khiến đất nước này tổn hại
nặng nề và lâm vào hỗn loạn khi các ung nhọt của nền kinh tế bùng phát
và đổ vỡ niềm tin. Đây là một câu chuyện mới, khởi đầu cho một thiên
Lãng luận thú vị mà chắc chắn anh Lãng sẽ có cơ hội bàn đến trong tương
lai phía trước.
Cuối cùng, thì chính chúng ta sẽ ở đâu
trong sự vận động mới của dòng chảy quyền lực Á Châu? Các bạn sẽ đứng
bên lề, trầm trồ quan sát hay cố gắng trở thành một bộ phận của dòng
chảy ấy và chớp lấy các cơ hội từ đó? Trong nhiều tháng qua, anh Lãng có
nhiều cuộc gặp với các đối tác và bạn bè, những người đang cố gắng đón
đầu một cơ hội mới trong bối cảnh thị trường đầu tư chưa bao giờ thuận
lợi hơn (về vốn, về lãi suất...) trong 15 năm qua ở Việt Nam. Đó sẽ
chính là những người đi tiên phong để gặt hái thành quả. Mặt khác, cơ
hội của sự phát triển là chia đều cho tất cả chúng ta, miễn là các bạn
phải đón nhận nó với một tinh thần chủ động. Đó sẽ là những cơ hội việc
làm mới, được tạo ra từ kết quả của sự tăng trưởng và cả một trào lưu
mới về tư duy thay thế cho nền văn hóa hỗn độn, dị hợm và chán chường.
Điều đặc biệt là gần đây, anh Lãng ghi nhận thấy sự tồn tại của một
trang báo online duy nhất không mang xu thế lá cải, và nhiều lúc có
nhiều thứ đáng xem là trang giaoduc.net.vn. Còn quá sớm và quá ít ỏi để
nói về một trào lưu tư tưởng mới, nhưng mọi thứ đều phải có điểm khởi
đầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét